Bản án về tội vi phạm quy định về an toàn lao động số 151/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 151/2021/HS-ST NGÀY 09/08/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG

Ngày 09 tháng 8 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 144/2021/TLST- HS ngày 21 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 154/2021/QĐXXST - HS ngày 02/7/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Hồng A, sinh năm: 1993, tại: Hà Tĩnh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn S, Xã L, Huyện H, Tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú hiện nay: Tổ C, Thôn B, Xã N, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Làm vườn; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; con ông: Lê Văn C, sinh năm: 1970 và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1972; chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại địa chỉ: Tổ C, Thôn B, Xã N, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng.

- Người bị hại: Anh Trần Quốc L, sinh năm: 2004 (chết). Người đại diện hợp pháp: Bà Trần Thị Đ, sinh năm: 1980 Địa chỉ: Ấp M, Xã S, Huyện C, Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

- Người làm chứng: Anh Trần Thái S1, sinh năm: 2003 Địa chỉ: Ấp M, Xã S, Huyện C, Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Bị cáo có mặt, bà Đam và anh S có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Hồng Anh chưa có chứng chỉ về công việc hàn điện, khoảng 07 giờ ngày 20/05/2020, Hồng A c ng với Nguyễn Văn H, sinh: 1994 đi tới khu vực tổ 19, Thôn 1, Xã Tà Nung, Thành phố Đà Lạt thi công hàn nhà lồng vườn của Hồng Anh. Khi chuẩn bị đi thì 02 người cháu họ hàng của Hồng A là Trần Thái S, sinh năm: 2003 và Trần Quốc L, sinh năm: 2005 xin đi theo vào vườn chơi. Khi vào đến vườn thì Hồng A trực tiếp nối dây điện t Aptomat điện vào máy hàn cách đó khoảng 100 mét để hàn sắt tại nhà lồng. Sau khi nối xong dây điện Hồng A và Huê trèo lên giàn của nhà lồng để hàn thì thấy dây điện nối t Aptomat ra máy hàn bị ngắn nên Hồng Anh đã nhờ Trần Quốc L lên ngắt cầu dao của Aptomat rồi nối thêm dây điện dùm. Sau đó, Lộc ngắt cầu dao rồi lấy 01 đoạn dây điện dài khoảng 10 mét nối thêm vào dây điện t Aptomat tới máy hàn, sau khi nối xong L dùng băng keo đen quấn khoảng 05 vòng quanh mối nối thì Hồng A t trên cao có nhìn xuống mối nối thấy đã ổn nên kêu L lên bật cầu dao Aptomat để Hồng A và Huê hàn nhà kính, còn L và S đứng dưới chơi. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, do trời mưa nên Huê đi về nhà trước, còn Hồng A, S và L chạy lên phía trên nhà lồng kính để trú mưa mà không ngắt điện và không thu dọn các dụng cụ hàn điện. Đến 16 giờ c ng ngày, trời tạnh mưa nên Hồng A và S đi thẳng ra phía ngoài để về, còn L do lúc chạy mưa có để quên dép dưới vườn (gần máy hàn) nên đã đi xuống nơi đang thi công nhà lồng kính để lấy dép. Khoảng 10 phút sau, do không thấy L đi lên, Hồng A quay xuống tìm thì thấy L nằm bất tỉnh trong tư thế nằm ngửa, chân không mang dép, trên tay phải cầm 01 (một) sợi dây điện Cadivi 2,5 mm nối ra máy hàn nên Hồng Anh đã giựt sợi dây điện ra rồi đưa Lộc đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lâm Đồng nhưng L đã tử vong (BL: 50-67; 77-81).

Ngày 20/8/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt có công văn đề nghị S Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Lâm Đồng thành lập Đoàn điều tra an toàn lao động xác định nguyên nhân và lỗi của những người có liên quan. Ngày 14/9/2020, Đoàn điều tra tai nạn lao động do Thanh tra S Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Lâm Đồng chủ trì đã có công văn số 60/TNLĐ xác định:

- Mối quan hệ pháp luật về lao động: Căn cứ Điều 15 Bộ luật Lao động thì “Hợp đồng lao động là sự thỏa luận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động”. Như vậy: giữa Lê Hồng A và Trần Quốc L Không phát sinh mối quan hệ pháp luật về lao động.

- Mối quan hệ pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động: Căn cứ vào Điều 3 khoản 8 và khoản 1a Điều 45 của Luật An toàn, vệ sinh lao động: “Tai nạn xảy ra vào lúc khoảng 15 giờ ngày 20/5/2020 khi ông Trần Quốc L đang đi lấy dép để về nhà là tai nạn lao động”.

- Nguyên nhân: Căn cứ Điều 5 khoản 5a Nghị định số 14/2014/NĐ-CP ngày 26/02/2014 của Chính phủ quy định: “Được đào tạo về nghiệp vụ, kỹ thuật đúng yêu cầu ngành nghề;” thì hành vi nhờ ông Trần Quốc L nối điện của ông Lê Hồng A là nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn lao động nói trên.

- Lỗi: Căn cứ Điều 6 khoản 6 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 quy định: “Người lao động làm việc không theo hợp đồng lao động có nghĩa vụ sau đây:

a) Chịu trách nhiệm về an toàn, vệ sinh lao động đối với công việc do mình thực hiện theo quy định của pháp luật;

b) Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động đối với những người có liên quan trong quá trình lao động;” Như vậy, ông Lê Hồng A là người phải chịu trách nhiệm về vụ tai nạn lao động nói trên.

Ngày 19/01/2021, Đoàn điều tra tai nạn lao động do Thanh tra S Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Lâm Đồng tiếp tục có công văn số 13/TNLĐ xác định: Căn cứ vào Điều 1 và Điều 2 khoản 3 Luật an toàn, vệ sinh lao động thì 02 ông Lê Hồng A và ông Trần Quốc L thuộc đối tượng điều chỉnh và việc làm của 02 ông thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật an toàn, vệ sinh lao động.

Căn cứ vào Điều 3 khoản 8 Luật an toàn, vệ sinh lao động và Điều 45 khoản 1a Luật an toàn, vệ sinh lao động thì cái chết của ông Trần Quốc L là tai nạn lao động.

Căn cứ điểm 3.4.2.1. QCVN 03:2011/BLĐTBXH được ban hành kèm theo Thông tư số 20/2011/TTBLĐTBXH ngày 29/07/2011 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định:“Chỉ những người có chứng chỉ về công việc hàn điện, được huấn luyện về an toàn lao động và được cấp thẻ an toàn mới được phép thực hiện công việc hàn điện. Việc huấn luyện định kỳ về an toàn lao động cho công nhân hàn điện phải được tiến hành ít nhất mỗi năm 01 lần.” Căn cứ Điều 6 khoản 4 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 thì ông Lê Hồng A là người phải chịu trách nhiệm về vụ tai nạn lao động nói trên (BL: 32- 36).

Vật chứng thu giữ: 02 (hai) đoạn cuộn băng keo đen kích thước 40x10 cm và 3x1 cm; 01 (một) đoạn đầu dây điện màu vàng dạng dẹt đường kính 8mm, dài 30cm; 01 (một) đầu dây điện màu đen dạng tròn, đường kính 12mm, dài 28mm.

Người bị hại: Anh Trần Quốc L, sinh năm 2005, HKTT: Xã Xuân S, Huyện Châu Đức, Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tử vong. Theo bản kết luận pháp y về tử thi số 142/2020/TT ngày 15/7/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Lâm Đồng kết luận nguyên nhân chết của anh L là do giật điện (BL:39-49).

Đại diện hợp pháp của bị hại: là ông Trần Quốc Tâm, sinh năm 1974 (bố ruột của bị hại) và bà Trần Thị Đam, sinh năm: 1980 (mẹ ruột của bị hại) c ng trú tại xã Xuân S, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, ông Tâm ủy quyền cho bà Đam theo văn bản ủy quyền ngày 09/6/2021. Sau khi xảy ra sự việc, bị can Lê Hồng Anh đã tổ chức mai táng cho bị hại và bồi thường số tiền 10.000.000 đồng cho gia đình bị hại. Bà Đam không yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn bãi nại cho Lê Hồng A (BL: 87-88).

Tại bản cáo trạng số 144/CT-VKS ngày 17/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố bị cáo Lê Hồng A về tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động” theo điểm a khoản 1 Điều 295 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Bị cáo Lê Hồng A khai nhận, vào sáng ngày 20/05/2020, tại vườn nhà của mình khu vực tổ 19, Thôn 1, Xã Tà Nung, Thành phố Đà Lạt, Hồng A đã trực tiếp và có nhờ Trần Quốc L thực hiện việc nối dây điện t Aptomat vào điện máy hàn để hàn sắt tại nhà lồng, do không thực hiện đúng về quy định an toàn trong lao động nên đã dẫn đến việc anh Trần Quốc L bị điện giật chết như cáo trạng truy tố là hoàn toàn chính xác và xin giảm nhẹ hình phạt.

Sau phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lê Hồng A về tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động” và đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 295; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Hồng A t 12 đến 15 tháng t , cho hư ng án treo. Thời gian thử thách t 24 đến 30 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của người bị hại đã nhận tiền khắc phục hậu quả, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề cập xem xét.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) đoạn cuộn băng keo đen kích thước 40x10 cm và 3x1 cm; 01 (một) đoạn đầu dây điện màu vàng dạng dẹt đường kính 8mm, dài 30cm; 01(một) đầu dây điện màu đen dạng tròn, đường kính 12mm, dài 28mm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ s nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Lê Hồng A: Lê Hồng Anh chưa có chứng chỉ về công việc hàn điện, khoảng 07 giờ ngày 20/05/2020, Hồng A c ng với Nguyễn Văn Huê, đi tới khu vực tổ 19, Thôn 1, Xã Tà Nung, Thành phố Đà Lạt thi công hàn nhà lồng vườn của Hồng Anh. Khi chuẩn bị đi thì 02 người cháu họ hàng của Hồng A là Trần Thái S và Trần Quốc L, xin đi theo vào vườn chơi. Khi vào đến vườn thì Hồng A trực tiếp nối dây điện t Aptomat điện vào máy hàn cách đó khoảng 100 mét để hàn sắt tại nhà lồng. Sau khi nối xong dây điện Hồng A và Huê trèo lên giàn của nhà lồng để hàn thì thấy dây điện nối t Aptomat ra máy hàn bị ngắn nên Hồng Anh đã nhờ Trần Quốc L lên ngắt cầu dao của Aptomat rồi nối thêm dây điện dùm. Sau đó, Lộc ngắt cầu dao rồi lấy 01 đoạn dây điện dài khoảng 10 mét nối thêm vào dây điện t Aptomat tới máy hàn, sau khi nối xong L dùng băng keo đen quấn khoảng 05 vòng quanh mối nối thì Hồng A t trên cao có nhìn xuống mối nối thấy đã ổn nên kêu L lên bật cầu dao Aptomat để Hồng A và Huê hàn nhà kính, còn L và S đứng dưới chơi. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, do trời mưa nên Huê đi về nhà trước, còn Hồng A, S và L chạy lên phía trên nhà lồng kính để trú mưa mà không ngắt điện và không thu dọn các dụng cụ hàn điện. Đến 16 giờ c ng ngày, trời tạnh mưa nên Hồng Anh và S đi thẳng ra phía ngoài để về, còn L do lúc chạy mưa có để quên dép dưới vườn nên đã đi xuống nơi đang thi công nhà lồng kính để lấy dép. Khoảng 10 phút sau, do không thấy L đi lên, Hồng A quay xuống tìm thì thấy L nằm bất tỉnh trong tư thế nằm ngửa, chân không mang dép, trên tay phải cầm 01 (một) sợi dây điện Cadivi 2,5 mm nối ra máy hàn nên Hồng Anh đã giựt sợi dây điện ra rồi đưa Lộc đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lâm Đồng nhưng L đã tử vong. Tại các Văn bản số 60/TNLĐ ngày 14/9/2020 và số 13/TNLĐ ngày 19/01/2021 của Đoàn điều tra tai nạn lao động S Lao động Thương binh và xã hội tỉnh Lâm Đồng xác định tại nạn xảy ra khi Trần Quốc L đi lấy dép để về nhà là tai nạn lao động và căn cứ Điều 6 khoản 4 Luật An toàn, Vệ sinh lao động năm 2015 thì Lê Hồng A là người phải chịu trách nhiệm về vụ tai nạn lao động nói trên. Theo bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 142/2020/TT ngày 15/7/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Lâm Đồng thì nguyên nhân chết của anh Trần Quốc L là do điện giật.

[3] Xét thấy, Lê Hồng A là người đã thành niên và có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo Hồng A chưa có chứng chỉ đào tạo về công việc hàn điện; không đảm bảo an toàn lao động trong quá trình thực hiện công việc hàn điện; đã gây ra tai nạn dẫn đến hậu quả làm anh L chết. Hành vi của Lê Hồng A là rất nghiêm trọng, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về bảo vệ tính mạng, sức khỏe, an toàn cho người lao động và những người khác theo quy định tại các Điều 1; 2 và 12 của Luật An toàn, vệ sinh lao động và điểm

3.4.2.1. QCVN 03:2011/BLĐTBXH được ban hành kèm theo Thông tư số 20/2011/TTBLĐTBXH ngày 29/7/2011 của Bộ lao động Thương binh và xã hội. Lỗi vô ý do cẩu thả của bị cáo gây ra. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa; lời khai của người đại diện hợp pháp của người bị hại và của người làm chứng trong quá trình điều tra, ph hợp với tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận hành vi của Lê Hồng A phạm vào tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động” theo điểm a khoản 1 Điều 295 của Bộ luật hình sự, như cáo trạng số 144/CT-VKS ngày 17/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Do bị cáo thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn, hối lỗi về hành vi phạm tội của mình; tự nguyện khắc phục hậu quả và bồi thường; người đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn bãi nại, xin không xử lý hình sự đối với bị cáo; nên áp dụng điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.

[5] Bị cáo có nhân thân tốt và có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương theo Điều 65 của Bộ luật hình sự cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục, phòng ng a chung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại Trần Thị Đ, là mẹ ruột của Trần Quốc L đã nhận số tiền bồi thường khắc phục hậu quả và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Công an điều tra đã thu giữ 02 (hai) đoạn cuộn băng keo đen kích thước 40x10 cm và 3x1 cm; 01 (một) đoạn đầu dây điện màu vàng dạng dẹt đường kính 8mm, dài 30cm; 01(một) đầu dây điện màu đen dạng tròn, đường kính 12mm, dài 28m, là công cụ sử dụng khi phạm tội, xét thấy không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Hồng A phạm tội “Vi phạm quy định về an toàn lao động”.

1.1. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 295; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự;

1.2. Xử phạt bị cáo Lê Hồng A 12 (mười hai) tháng t , cho hư ng án treo. Thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng, tính t ngày tuyên án.

Trong thời gian thử thách, giao bị cáo Lê Hồng A cho Ủy ban nhân dân xã T, Thành phố Đà Lạt, Tỉnh Lâm Đồng, nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục bị cáo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo Lê Hồng A thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hư ng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần tr lên Tòa án có thể quyết định buộc người được hư ng án treo phải chấp hành hình phạt t của bản án đã cho hư ng án treo.

(Đã giải thích chế định án treo) 2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) đoạn cuộn băng keo đen kích thước 40x10 cm và 3x1 cm; 01 (một) đoạn đầu dây điện màu vàng dạng dẹt đường kính 8mm, dài 30cm; 01(một) đầu dây điện màu đen dạng tròn, đường kính 12mm, dài 28mm.

(Theo biên bản giao, nhận tang vật ngày 21/6/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Lê Hồng A phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể t ngày tuyên án, bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Riêng người đại diện hợp pháp của người bị hại vắng mặt, có quyền kháng cáo trong thời hạn nêu trên kể t ngày nhận được hoặc niêm yết bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định về an toàn lao động số 151/2021/HS-ST

Số hiệu:151/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về