Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 53/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Ô MÔN, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 53/2023/HS-ST NGÀY 16/08/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 16 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 48/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 11/2023/HSST-QĐ ngày 08 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Lê Quốc Q, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1995 tại Vĩnh Long.

Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn (văn hóa): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn V, sinh năm 1971 (sống) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1969 (sống); anh chị em ruột: có 01 người, sinh năm 1992; có vợ: Nguyễn Thị Huỳnh M, sinh năm 1990 (sống) và con: có 01 người, sinh năm 2017; tiền án: không; tiền sự: không.

Bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

mặt) - Người bào chữa cho bị cáo:

Ông Lê Văn P – Luật sư Công ty L thuộc Đoàn luật sư thành phố C. (Có

- Bị hại:

Anh Hồ Văn H, sinh năm 1975 (chết) Đại diện hợp pháp của bị hại:

Chị Cao Thị Út E, sinh năm 1979. (Có mặt) Đăng ký thường trú: Ấp T, xã T, huyện V, thành phố Cần Thơ.

Chỗ ở hiện nay: Khu V, phường P, quận Ô, thành phố Cần Thơ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1) Chị Nguyễn Thị Huỳnh M, sinh năm 1990. (Có mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long.

2) Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1969. (Có mặt) Địa chỉ: Tổ H, ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 20/7/2022, Lê Quốc Q một mình điều khiển xe mô tô biển số 64K1-371xx trên đường T theo hướng từ ngã tư N về nhà máy X, khi lưu thông đến đoạn thuộc khu vực T, phường P, quận Ô, thành phố Cần Thơ thì xảy ra tai nạn với anh Hồ Văn H một mình điều khiển xe mô tô biển số 65L1-069xx theo hướng ngược lại. Hậu quả làm anh Hoàng tử v trên đường đi cấp cứu.

Kết luận giám định pháp y tử thi số 108/KLGĐ-KTHS-PY ngày 02/8/2022 của Phòng K Công an thành phố C kết luận nguyên nhân tử vong của nạn nhân Hồ Văn H tử vong do choáng mất máu cấp sau dập vỡ đa nội tạng, do chấn thương ngực bụng kín.

Kết luận giám định số 267 ngày 08/8/2022 của Phòng KTHS Công an thành phố C kết luận: nồng độ cồn trong máu của nạn nhân Hồ Văn H 296,82mg/100ml máu.

Kết quả trả lời của Bệnh viện Đ: Lê Quốc Q có nồng độ cồn 43,1mmol/l (quy đổi: 198,2mg/100ml máu).

Sau vụ tai nạn, Lê Quốc Q bị chấn thương nặng. Kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 43/2023/KLGĐ ngày 21/02/2023 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực T: Lê Quốc Q trước trong khi xảy ra sự việc không có bệnh lý tâm thần, đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, sau khi xảy ra sự việc và hiện tại có bệnh lý tâm thần, hội chứng sau chấn động não, mức độ suy não chấn thương, đương sự hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Lê Quốc Q đã qua đào tạo sát hạch lái xe hạng A1 và đã được cấp giấy phép lái xe.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Quốc Q khai nhận: Ngày 20/7/2022 Q tan làm tại Công ty Đ1, khoảng 18 giờ có nhậu cùng với một số người bạn làm chung, uống khoảng 02 lít rượu. Nhậu xong Q điều khiển xe một mình về nhà trọ theo hướng từ Quốc lộ I về nhà máy X (đường T). Khi đến đoạn đường T thuộc khu vực T, phường P, quận Ô, Q có điều khiển xe sang làn đường bên trái để vượt xe ô tô cùng chiều phía trước, sau đó xảy ra tai nạn với xe mô tô do anh Hồ Văn H điều khiển nhưng không nhớ rõ xảy ra va chạm như thế nào do Q bị thương nặng và được đưa đi cấp cứu. Quy có giấy phép lái xe hạng A1 nhưng bị mất.

Kết quả khám nghiệm hiện trường: đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường trải nhựa bằng phẳng, có vạch phân tuyến kẻ giữa đường không liên tục nhau, mặt đường rộng 7m00, chia làm hai phần đường trong đó phần đường hướng từ công ty X1 Đô ra QL91 có chiều rộng 3m80, phần đường hướng từ QL91 về công ty X2 có chiều rộng 3m20, có đèn đường chiếu sáng. Xe mô tô 65L1-069xx (do anh Hồ Văn H điều khiển) vị trí số 01 ngã nghiêng sang phải, đầu xe hướng về QL91, có dấu vết cày không liên tục ở vị trí số 3 chiều dài 0m90, vết cày hướng về xe mô tô 65L1-069xx; xe mô tô 64K1-371xx (do Lê Quốc Q điều khiển) vị trí số 02 ngã nghiêng sang trái, đầu xe hướng về QL91, thuộc làn đường bên phải (hướng Quy di chuyển), có dấu vết cày không liên tục ở vị trí số 4 chiều dài 13m45, vết cày từ làn đường bên trái (hướng Quy di chuyển) hướng về xe mô tô 64K1-371xx. Từ kết quả khám nghiệm hiện trường xác định vùng va chạm nằm ở làn đường bên trái theo hướng lưu thông từ Quốc lộ I vào công ty X2.

Xe mô tô 64K1-371xx là của Nguyễn Thị Huỳnh M là vợ của Lê Quốc Q. Q và chị M cùng sử dụng phương tiện nói trên làm phương tiện đi lại. Vào ngày 20/7/2022, Q đi nhậu có sử dụng rượu và gây tai nạn thì chị M không biết do đang đi làm ở công ty L1 thuộc KCN T.

Về vật chứng: 01 (một) xe mô tô biển số 64K1-371xx bị hư hỏng sau tai nạn và 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô biển số 64K1-371xx; 01 (một) xe mô tô biển số 65L1-069xx bị hư hỏng sau tai nạn; 01 (một) bao thư niêm phong chứa đĩa ghi hình hỏi cung bị can (chuyển cùng hồ sơ vụ án).

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường cho phía gia đình bị hại số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận đủ tiền (có biên nhận tiền), có đơn xin bãi nại và miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Tại Cáo trạng số 50/CT-VKSOM ngày 12 tháng 7 năm 2023 Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ để xét xử Lê Quốc Q về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm b Khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm trình bày lời luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng. Qua phân tích những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 260, Điều 54; Điều 65; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo mức án từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 05 (năm) năm. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc gia đình bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Đại diện gia đình bị hại đã nhận tiền bồi thường, không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Ghi nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Huỳnh M 01 (một) xe mô tô biển số 64K1-371xx bị hư hỏng sau tai nạn; trả lại cho bị cáo 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô biển số 64K1-371xx; trả lại cho gia đình bị hại 01 (một) xe mô tô biển số 65L1-069xx bị hư hỏng sau tai nạn.

Đề nghị tịch thu lưu hồ sơ: 01 (một) bao thư niêm phong chứa đĩa ghi hình hỏi cung bị can (chuyển cùng hồ sơ vụ án).

- Người bào chữa cho bị cáo: Thống nhất với tội danh và điều luật như Viện kiểm sát đã truy tố, bị cáo có lỗi nhưng đại diện bị hại đã giảm nhẹ hình phạt, bị cáo còn hạn chế về nhận thức và bệnh lý tâm thần nếu xử phạt tù thì khó có thể đảm bảo thi hành án được. Vì vậy, người bào chữa thống nhất với hình phạt như viện kiểm sát đề nghị cho bị cáo hưởng án treo.

- Bị cáo thống nhất lời bào chữa của người bào chữa, không có ý kiến bổ sung.

- Đại diện hợp pháp của bị hại: Không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T và chị Nguyễn Thị Huỳnh M: Không có ý kiến gì khác.

- Bị cáo thừa nhận hành toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Ô, điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án; của Viện kiểm sát nhân dân quận Ô Môn, Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội: Lời khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa; Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Ngày 20/7/2022 bị cáo tan làm tại Công ty Đ1, khoảng 18 giờ có nhậu cùng với một số người bạn làm chung, uống khoảng 02 lít rượu. Nhậu xong bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 64K1-371xx một mình về nhà trọ theo hướng từ Quốc lộ I về nhà máy X (đường T). Khi đến đoạn đường T thuộc khu vực T, phường P, quận Ô, bị cáo có điều khiển xe sang làn đường bên trái để vượt xe ô tô cùng chiều phía trước thì xảy ra tai nạn với anh Hồ Văn H một mình điều khiển xe mô tô biển số 65L1-069xx theo hướng ngược lại, hậu quả làm anh Hoàng tử v trên đường đi cấp cứu.

Bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 64K1-371xx trong khi đã sử dụng rượu có nồng độ cồn 43,1mmol/l (quy đổi: 198,2mg/100ml máu), điều khiển xe lấn sang làn đường bên trái (theo hướng bị cáo di chuyển) để vượt xe ô tô cùng chiều nhưng không đảm bảo an toàn, gây ra vụ tai nạn giao thông với xe mô tô do anh H điều khiển, hậu quả làm anh Hoàng tử v. Hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định tại khoản 8, 11 Điều 8 và khoản 2 Điều 14 Luật giao thông đường bộ, gây thiệt hại đến tính mạng người khác.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự. Do đó, việc truy tố và xét xử bị cáo trước pháp luật là có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Tính mạng của con người là thiêng liêng được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm dù cố ý hay vô ý đều bị pháp luật nghiêm khắc trừng trị. Nhà nước ta có những chính sách phù hợp làm giảm bớt tai nạn giao thông, cũng như thông qua các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân được biết để thực hiện đúng. Bản thân bị cáo là người đã được trang bị kiến thức về luật giao thông, được cấp bằng lái xe, đáng lý ra bị cáo phải thật cẩn trọng khi điều khiển xe thuộc nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng bị cáo vì không tuân thủ đúng quy định của người điều khiển phương tiện giao thông, điều khiển xe mô tô trong khi đã sử dụng rượu có nồng độ cồn trong máu vượt quá quy định, vượt xe thiếu quan sát, không đảm bảo an toàn nên đã không xử lý tình huống kịp thời và hậu quả làm cho anh Hồ Văn H tử vong. Điều này cho thấy bị cáo xem thường tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác, cũng như cho chính bản thân của bị cáo.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người trưởng thành có đầy đủ nhận thức và điều khiển hành vi của mình, bị cáo phải biết xe mô tô là loại xe cơ giới - nguồn nguy hiểm cao độ, chỉ sơ suất nhỏ cũng có thể ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác. Vì vậy, bị cáo phải tuyệt đối chấp hành pháp luật về quy định an toàn giao thông đường bộ, do bị cáo quá cẩu thả lẫn tự tin khi điều khiển xe không đúng phần đường để xảy ra tai nạn, mặc dù ngoài ý muốn của bị cáo nhưng Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức hình phạt tương xứng để giáo dục cải tạo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa thể hiện bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có tác động nhờ gia đình bị cáo bồi thường thiệt hại cho phía bị hại và đại diện bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự; Đồng thời, tại phiên tòa đại diện bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Xét bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, sau khi phạm tội bị cáo phải tiếp tục điều trị thương tích do còn hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi và do bệnh lý tâm thần (theo Kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 43/2023/KLGĐ ngày 21/02/2023 của Trung tâm P1). Vì vậy, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết này theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để cân nhắc hình phạt đối với bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất nội dung Cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Ô Môn cũng như quan điểm luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Để tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo khi chấp hành án nên không phạt bổ sung đối với bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

[6] Về vật chứng của vụ án: Theo đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét để giải quyết.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố : Lê Quốc Quy phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 260; Điều 54; Điều 65; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Lê Quốc Q 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 (năm) năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (16/8/2023).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long trong việc giám sát, giáo dục đối với bị cáo.

Về hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách: Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ quy định tại các Điều 87, 92 Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Ghi nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ô đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Huỳnh M: 01 (một) xe mô tô biển số 64K1-371xx nhãn hiệu Honda, loại xe Vision, màu sơn xanh-đen, số máy: JK03E5265652, số khung: RLHJK0319MZ09407, đã bị hư hỏng nặng và 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô số 64 002837, biển số đăng ký 64K1-371xx; Đã trả lại cho đại diện bị hại là chị Cao Thị Út E 01 (một) xe mô tô biển số 65L1-069xx, nhãn hiệu Dream, màu sơn trắng-đen, dung tích 97, đã qua sử dụng và hư hỏng nặng.

Tịch thu lưu hồ sơ: 01 (một) bao thư niêm phong chứa đĩa ghi hình hỏi cung bị cáo (chuyển cùng hồ sơ vụ án).

Về án phí sơ thẩm Áp dụng Khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo : Trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án để xin Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 53/2023/HS-ST

Số hiệu:53/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:16/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về