TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 52/2022/HS-ST NGÀY 28/10/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 28 tháng 10 năm 2022 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 52/2022/TLST- HS ngày 03 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2022/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lê Văn H; tên gọi khác: Không; sinh ngày 17/7/1972; Nơi sinh: KT, HD; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm HT, xã CN, thành phố TN, tỉnh TN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông: Lê Văn T, con bà: Nguyễn Thị Đ, đều đã chết; Gia đình có 07 anh em, bị cáo là con thứ bẩy trong gia đình; Có vợ là: Nguyễn Thị V, sinh năm 1976, có 01 con chung sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam ngày nào được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
- Người tham gia tố tụng khác:
+ Bị hại: Ông Lương Thanh H1, sinh năm 1956 (đã chết)
+ Đại diện hợp pháp của bị hại: Chị Lương Thị V, sinh năm 1974 – Có mặt.
Trú tại: Xóm L, xã HT, huyện ĐH, tỉnh TN.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Công ty TNHH bê tông xây dựng VC Địa chỉ: Xóm KN, xã PX, huyện ĐT, tỉnh TN.
- Người đại diện theo pháp luật: Ông Đoàn Văn T, chức vụ: Tổng giám đốc – Vắng mặt.
2. Chị Nguyễn Thị V1, sinh năm 1976 – Có mặt. Trú tại: Xóm HT, xã CN, TP TN, tỉnh TN.
+ Người làm chứng:
1. Ông Phan Khắc H, sinh năm 1955 – Vắng mặt Trú tại: Tổ A, phường CH, TP TN, tỉnh TN.
2. Cháu Lê Anh T, sinh năm 2005 – Vắng mặt - Người đại diện hợp pháp: Chị Phan Thị Thanh H, sinh năm 1981 (mẹ đẻ cháu Tuấn) – Vắng mặt Trú tại: Tổ A, phường CH, TP TN, tỉnh TN.
3. Anh Lương Văn Th, sinh năm 1976 – Vắng mặt Trú tại: Xóm NL, xã HT, huyện ĐH, tỉnh TN.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Văn H có Giấy phép lái xe hạng C số 19010519xxxx do Sở Giao thông vận tải tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 19/12/2017, có giá trị đến ngày 19/12/2022, hiện lái xe thuê cho Công ty TNHH Bê tông xây dựng VC (Công ty VC) và được Công ty VC giao cho điều khiển xe ô tô tải tự đổ, BKS: 20C- xxxxx. Khoảng 13 giờ ngày 04/4/2022, theo yêu cầu của Công ty, Lê Văn H điều khiển xe ô tô tải BKS: 20C- xxxxx đến mỏ đất của Công ty VC thuộc xóm AB, xã ML, huyện ĐH, tỉnh TN để chở đất về đổ tại Nhà máy gạch VC, thuộc xóm AV, xã CN, thành phố TN. Sau khi xúc đất lên xe ô tô, H điều khiển xe đi theo đường liên xóm thuộc xóm VC, xã HT, huyện ĐH, hướng từ MĐ của Công ty VC đi ra đường liên xóm cùng mức xóm VC đi UBND xã HT. Khoảng 13 giờ 30 thì đi đến khu vực ngã ba giao nhau với đoạn đường từ UBND xã HT đi xóm VC (thuộc xã HT, huyện ĐH) điều khiển xe rẽ trái đi về hướng UBND xã HT, lúc này xe tô tô vào cua gấp và bám vào bên trái đường hướng đi UBND xã HT thì đâm va vào xe mô tô BKS: 20B1- xxxxx do ông Lương Thanh H1, sinh năm 1956, trú tại xóm L, xã HT, huyện ĐH, tỉnh TN điều khiển theo hướng ngược chiều. Vị trí đâm va ở phần ba đờ xốc bên pH1 theo hướng nhìn từ trên Cabin xe. Sau khi đâm va, chiếc xe mô tô BKS: 20B1- xxxxx đổ nằm ở dưới gầm phần đầu xe. H xuống xe kiểm tra thì thấy ông H1 ngã dưới đất, đầu quay hướng đi UBND xã HT và nằm ở trước đầu xe bên trái xe ô tô. H hỏi “Ông có bị sao không ?”,thì ông H1 trả lời “Ông không sao cả, cháu cứ đi đi” rồi H bế ông H1 vào vệ đường bên trái và kéo chiếc xe mô tô ra sát người ông H1. Do thấy người ông H1 không chảy máu và tỉnh táo, nên H đã gọi điện thoại cho anh Lương Văn Th, sinh năm 1979 trú tại: xóm NL, xã HT, huyện ĐH, tỉnh TN đang điều khiển máy xúc ở mỏ đất nhờ ra xem ông H1 thế nào rồi, sau đó H tiếp tục lên xe chở đất đến nhà máy gạch Việt C và đổ đất tại đây. Cùng lúc này, có ông Phan Khắc H, sinh năm 1955 và cháu Lê Tuấn A, sinh năm 2005, cùng trú tại: tổ A, phường CH, thành phố TN đi đến và thấy ông H1 tại hiện trường nên đã gọi mọi người đưa ông H1 đi Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên cấp cứu. Sau khi đổ đất xong, H quay lại hiện trường để làm việc với cơ quan Công an.
Hậu quả: Do thương tích nặng đến 19 giờ cùng ngày thì ông H1 tử vong. Các phương tiện liên quan đến tai nạn đều bị hư hỏng nhẹ.
Sau khi xảy ra vụ tai nạn, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Hỷ đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám nghiệm các phương tiện có liên quan, kết quả như sau:
- Biên bản khám nghiệm hiện trường lập hồi 16 giờ 35 ngày 04/4/2022 xác định: Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường ngã ba, có mặt đường giải bê tông, mặt đường hướng đi UBND xã HT có chiều rộng 6,3m, mặt đường hướng đi xóm C có chiều rộng 5,4m, mặt đường hướng đi vào Công ty VC có chiều rộng 6,1m. Lấy cột điện không số bên mép đường trái hướng UBND xã HT đi xóm VC và đối diện đường vào Mỏ đất của Công ty C làm mốc cố định. Lấy mép đường pH1 hướng UBND xã HT đi vào MĐ của Công ty VC làm mép đường chuẩn để đo các dấu vết và làm mốc.
Xe ôtô tải BKS: 20C- xxxxx đỗ trên mặt đường, đầu xe quay hướng đi UBND xã HT, đuôi xe chếch về đường hướng vào mỏ đất Công ty VC, có tâm trục bánh lốp trước bên trái cách mép đường chuẩn là 1,38m, tâm trục bánh lốp sau bên trái cách mép đường chuẩn là 0,96m.
Xe môtô BKS: 20B1- xxxxx đổ nghiêng về bên trái, đầu xe quay vào hướng lề đường bên trái, đuôi xe quay vào lề đường pH1, có tâm trục bánh trước cách mép đường chuẩn là 2,94m, tâm trục bánh sau cách mép đường chuẩn là 1,95m.
Vết cày mặt đường có hướng xóm VC đi UBND xã HT có chiều dài 2,6m. Vết V1 lốp trên mặt đường có hướng từ Mỏ đất Công ty C đi UBND xã Hóa Thượng có chiều dài 10m, có điểm đầu cách mép đường chuẩn là 1,70m, điểm cuối trùng với mặt lăn của bánh lốp phía trước bên trái xe ô tô BKS 20C- xxxxx. Tâm trục bánh sau xe mô tô BKS 20B1- xxxxx cách tâm trục bánh trước bên trái xe ô tô BKS 20C- xxxxx đo theo chiều vuông góc là 0,7m, đo từ tâm trục bánh sau trái xe ô tô đến đầu điểm mở của đường MĐ Công ty VC ra đường hướng đi UBND xã HT là 6,4m, đo từ tâm trục bánh sau bên trái xe ô tô đến điểm mốc là cột điện không số là 8,70m.
- Biên bản khám nghiệm tử thi ông Lương Thanh H1, lập hồi 21 giờ ngày 04/4/2022 xác định có các dấu vết sau: Hố mắt pH1 bầm tím, tụ mái, dấu hiệu đeo kính râm. Hai mắt đồng tử dãn tối đa. Mũi, miệng có máu, lỗ tai bên trái có máu. Vùng gò má trái có vết trầy xước da, kích thước (4 x 1,5)cm. Vùng đầu có vết mổ còn chỉ khâu hình dấu hỏi, kích thước (34 x 0,1)cm. Cổ, gáy có vết hoan tử thi. Vùng ngực pH1 có vết bầm tím, kích thước (6 x 4)cm, ngực trái có vết bầm tím, kích thước (8 x 5)cm. Bả vai pH1 phía trước có vết bầm tím, kích thước (8 x 6,5)cm. Bả vai pH1 phía sau có vết trầy xước da, kích thước (8 x 1,5)cm. Vùng thắt lưng có vết bầm tím, tụ máu, kích thước (30 x 9)cm. Khuỷu tay trái có vết trầy xước da, kích thước (3 x 3)cm. 1/3 trên mặt ngoài cẳng tay trái có vết trầy xước da, kích thước (2 x 1,5)cm. Chân có vết hoen tử thi ở mặt sau hai đùi. Đầu dương vật có dịch, hậu môn khô. Vỡ xương sọ, dập não, chảy máu não. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 17/TT ngày 18/4/2022của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Nguyên nhân chết của ông Lương Thanh H1: Do đa chấn thương, chấn thương sọ não dẫn đến tử vong.
- Tại các biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông xác định:
Xe ô tô BKS 20C- xxxxx: Ba đơ xốc phía trước bên pH1 bị lực tác động gây móp méo, trầy xước sơn, hở kim loại chùi sạch bụi bẩn, vùng dấu vết có kích thước (40 x 32)cm, vùng dấu vết có chiều từ trước về sau. Đo điểm gần nhất của dấu vết ra mép ngoài cùng bên pH1 ba đơ xốc là 58cm. Đo điểm thấp nhất của dấu vết xuống vuông góc mặt đất là 52cm. Mặt calang trước đầu xe bị lực tác động gây nứt vỡ, chùi sạch bụi bẩn. Vùng dấu vết có kích thước (50 x 18)cm, vùng dấu vết có chiều từ trước về sau, từ trên xuống dưới. Đo điểm gần nhất của dấu vết ra mép ngoài cùng bên pH1 mặt calang là 58cm. Đo điểm thấp nhất của dấu vết xuống vuông góc mặt đất là 93cm. Phần ốp kim loại phía trước đầu xe, phía trên mặt Calang bị tác động gây móp méo, trượt xước sơn, chùi sạch bụi bẩn, vùng dấu vết có kích thước (25 x 13)cm, dấu vết có chiều từ trước về sau, từ trên xuống dưới. Đo từ điểm ngoài cùng dấu vết ra mép ngoài cùng bên pH1 phần ốp kim loại là 50cm. Đo từ điểm thấp nhất của dấu vết xuống vuông góc mặt đất là 136cm.
Xe mô tô BKS 20B1- xxxxx: Mặt ngoài bên pH1 vành xe bánh lốp trước bị lực tác động từ trước về sau, từ ngoài vào trong tâm trục, đo điểm gần nhất của vết đến chân van theo chiều lùi bánh xe là 81cm. Chiều dài vết là 11cm. Mặt ngoài má lốp bên trái bánh lốp phía trước có vết tì trượt cao su, chùi sạch bụi bẩn, kích thước (60 x 5,5)cm. Tại vị trí mặt ngoài bị lực tác động theo chiều từ trái qua pH1, từ ngoài vào trong tâm trục, gây rách mòn mặt lốp dài 2cm. Đo điểm gần nhất của vết tì trượt cao su theo chiều tiến bánh xe đến chân van là 15cm. Đầu ngoài phía trước chắn bùn bánh lốp trước bị lực tác động theo chiều từ trước về sau, từ trái qua pH1, gây cong vênh, kích thước (01 x 0,5)cm. Mặt sau chắn bùn bánh lốp trước có khoảng vết nứt vỡ nhựa, kích thước (15 x 8)cm. Ốp nhựa bên pH1 giảm sóc bánh lốp trước bị lực tác động gây bong bật ốp nhựa phản quang khỏi vị trí ban đầu và có vết tì xước nhựa, kích thước (7 x 6)cm, vết có chiều từ trước về sau. Đầu tròn tay nắm bên trái có vết mài trượt cao su, hở lõi kim loại, kích thước (4 x 3)cm. Mặt ngoài bên trái tay nắm xách xe có vết trượt xước kim loại, kích thước (12 x 3)cm, vết có chiều từ dưới lên trên. Đầu ngoài để chân trước bên pH1 có vết mài trượt cao su, hở lõi kim loại, kích thước (3 x 3)cm. Ốp ống xả bị lực tác động theo chiều từ pH1 qua trái gây bóp méo, kích thước (20 x 3)cm. Đầu ngoài để chân sau bên pH1 bám dính vật chất màu nâu, bị lực tác động tại bề mặt ngoài gây bong tróc sơn kích thước (1 x 1)cm.
Căn cứ vào kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kết luận giám định pháp y, khám nghiệm dấu vết các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn và các tài liệu điều tra thu thập được, đủ căn cứ xác định nguyên nhân trực tiếp gây tai nạn là do Lê Văn H điều khiển xe ô tô đi không đúng phần đường quy định nên đã đâm va vào xe mô tô do ông Lương Thanh H1 điều khiển, hậu quả ông H1 tử vong.
Vật chứng của vụ án:
- 01 xe ô tô tải BKS 20C- xxxxx; 01 Giấy chứng nhận kiểm định số 0093091 do Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới Thái Nguyên cấp ngày 04/11/2021; 01 đăng ký xe ô tô số 200xxxx do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 29/4/2021 của ô tô BKS 20C- xxxxx và 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô số 0000466115 của Công ty Bảo hiểm Bảo Việt cấp ngày 19/11/2021 đã trả cho Công ty TNHH bê tông xây dựng VC quản lý sử dụng.
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream BKS: 20B1- xxxxx, bị hưng hỏng một phần sau tai nạn đã trả cho đại diện gia đình bị hại quản lý, sử dụng.
- 01 giấy phép lái xe hạng C số: 19010519xxxx mang tên Lê Văn H do Sở Giao thông vận tải tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 29/12/2017 được chuyển theo hồ sơ vụ án, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Tòa án đã trả cho Lê Văn H quản lý, sử dụng.
Về phần trách nhiệm bồi thường dân sự:
Chị Nguyễn Thị V1 (là vợ bị cáo Lê Văn H) đã thống nhất thỏa thuận bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 130.000.000 đồng. Việc bồi thường đã thực hiện xong. Đại diện gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và không có yêu cầu gì thêm.
Tại bản Cáo trạng số 48/CT- VKSĐH ngày 22 tháng 9 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ đã truy tố bị cáo Lê Văn H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ tham gia phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Văn H từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã thống nhất thỏa thuận xong, không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét, giải quyết.
Về vật chứng của vụ án: Đã xử lý xong trước khi xét xử nên không xem xét, giải quyết.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo pH1 nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Trong phần tranh luận bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật và xin được cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tội danh: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 04/4/2022, Lê Văn H (có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe ô tô tải BKS: 20C- xxxxx đi trên đường liên xóm theo hướng xóm VC đi UBND xã HT, huyện ĐH, tỉnh TN. Khi đến ngã ba thuộc xóm VC, xã HT, huyện ĐH, H điều khiển xe ô tô rẽ trái, cho xe đi ở bên trái đường hướng đi UBND xã HT sinh năm 1956, trú tại: xóm L, xã HT, huyện ĐH, tỉnh TN điều khiển theo hướng ngược chiều. Do khoảng cách quá gần, không kịp xử lý nên phần ba đờ sốc bên H1 xe ô tô do H điều khiển đã đâm va vào xe mô tô do ông H1 điều khiển gây tai nạn. Hậu quả: Ông H1 bị thương tích nặng pH1 đi cấp cứu tại Bệnh viện, đến 19 giờ cùng ngày thì tử vong, xe ô tô và xe mô tô bị hư hỏng nhẹ.
Qúa trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, phù hợp với bản ảnh hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, khám nghiệm tử thi, kết luận giám định pháp y về tử thi, biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông, kết luận giám định liên quan đến tai nạn giao thông và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ. Nội dung điều luật quy định như sau:
Điều 9. Quy tắc chung “1. Người tham gia giao thông pH1 đi bên pH1 theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định…”.
Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Nội dung điều luật quy định như sau:
“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người;
….”.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự, an toàn trong hoạt động giao thông đường bộ, đồng thời xâm phạm đến tính mạng, tài sản của người khác và làm mất trật tự an toàn công cộng; do đó, Hội đồng xét xử xét thấy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[2]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy:
Bị cáo là người dân lao động có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; sau khi gây tai nạn bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại; do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không pH1 chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, phạm tội lần đầu với lỗi vô ý, đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng nên khi lượng hình sẽ xem xét mở lượng khoan hồng của pháp luật, chấp nhận lời thỉnh cầu của bị cáo để áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được cải tạo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung, đồng thời tạo điều kiện để bị cáo khắc phục hậu quả đã gây ra.
[3]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng và hình phạt đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
[4]. Về vật chứng của vụ án:
- Đối với chiếc xe ô tô BKS: 20C- xxxxx; 01 Giấy chứng nhận kiểm định số 0093091 do Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới Thái Nguyên cấp ngày 04/11/2021; 01 đăng ký xe ô tô số 200xxxx do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 29/4/2021 của ô tô BKS 20C- xxxxx và 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô số 0000466115 của Công ty Bảo hiểm BV cấp ngày 19/11/2021, quá trình điều tra Công an huyện Đồng Hỷ đã trả cho Công ty TNHH Bê tông xây dựng VC là chủ sở hữu hợp pháp quản lý, sử dụng là phù hợp.
- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream BKS: 20B1- xxxxx, quá trình điều tra Công an huyện Đồng Hỷ đã trả lại cho đại diện gia đình bị hại quản lý, sử dụng là phù hợp.
- Đối với 01 giấy phép lái xe hạng C số: 19010519xxxx (bản gốc) mang tên Lê Văn H do Sở Giao thông vận tải tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 29/12/2017 là giấy tờ tùy thân của bị cáo, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ đã trả cho bị cáo Lê Văn H quản lý, sử dụng.
[5]. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Qúa trình điều tra, đại diện hợp pháp của bị hại và gia đình bị cáo đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong và không có yêu cầu, đề nghị gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[6]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Đại diện hợp pháp của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[7]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra V, Kiểm sát V trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:
Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử. Điều tra V, Kiểm sát V đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo; đại diện hợp pháp của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
1. Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Lê Văn H 15 (Mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 30 (Ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Lê Văn H cho Ủy ban nhân dân xã Cao Ngạn, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo pH1 chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Lê Văn H pH1 chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Nguyễn Thị V1, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên bản án. Vắng mặt đại diện hợp pháp của Công ty TNHH bê tông xây dựng VC, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 52/2022/HS-ST
Số hiệu: | 52/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/10/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về