Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 27/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 27/2023/HS-ST NGÀY 18/05/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 18 tháng 5 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 25/2023/TLST- HS ngày 07 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2023/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn T, Sinh ngày: 07/4/1994 tại Thanh Thủy, Phú Thọ; Nơi cư trú: Khu 16, xã V, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Trần Văn Thế, sinh năm 1960 và bà: Nguyễn Thị Hương, sinh năm 1967; Vợ:Trần Thị Thúy Hằng, sinh năm 1998; Con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam. Hiện bị cáo thi hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã V, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại: Anh Nguyễn Văn H (Đã chết).

Đại diện cho người bị hại: Chị Đào Thị M, sinh năm 1982 - Vợ anh H. (Vắng mặt).

Địa chỉ: Khu 9, xã X, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.

Người đại diện theo ủy quyền của chị M: Ông Nguyễn Văn H - anh trai anh H (Có mặt).

Địa chỉ: Khu 22, xã X, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phan Văn P, sinh năm 1985. (Có mặt).

Địa chỉ: Khu X, xã V, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 03/11/2022, sau khi làm xong việc ở công ty, Trần Văn T điều khiển xe mô tô BKS 60B9-264.xx về nhà mình tại xã V, huyện Thanh Thủy. Khi đi qua đường tỉnh lộ 317G thuộc khu Đa Nghệ, xã Thắng Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, lúc này phía trước cùng chiều đi với T có anh Phan Văn P điều khiển xe mô tô 19L1-222.xx; anh Trần Văn N (Sinh năm 1985, thường trú tại khu Y, xã X, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ) và anh Nguyễn Văn H điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 19K7-05xx. Lúc này, T tăng ga, điều khiển xe mô tô vượt qua xe mô tô của anh P và anh N. Sau khi vượt qua xe của anh P và anh N, T tiếp tục điều khiển xe định vượt xe của anh H thì xảy ra va chạm với xe mô tô của anh H. Khi vượt xe Trần Văn T không báo hiệu bằng còi hay đèn. Sau khi va chạm xảy ra, xe mô tô do T và anh H điều khiển đổ nằm ra đường, cùng lúc này, anh Phan Văn P điều khiển xe mô tô 19L1- 222.44 đi phía sau, bị bất ngờ đã đâm vào xe mô tô Biển kiểm soát 19K7-05xx đang đổ ra đường. Hậu quả: Anh H và Trần Văn T được đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện Thanh Thủy sau đó anh H tử vong. Anh Phan Văn P ngã ra đường nhưng không bị thương tích. Các xe mô tô bị hư hỏng.

Sau khi xảy ra tai nạn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm P tiện, khám nghiệm tử thi, thu thập chứng cứ, kết quả đã xác định: Vị trí xảy ra va chạm giữa xe mô tô BKS 60B9-264.xx (do T điều khiển) với xe mô tô BKS 19K7-05xx (do anh H điều khiển) là tại phần đường bên pH theo hướng xã Thắng Sơn, huyện Thanh Sơn đi xã V, huyện Thanh Thủy. Vị trí va chạm giữa xe mô tô 19K7-05xx và xe mô tô BKS: 19L1 – 222.xx (do anh P điều khiển) là tại vị trí giữa đường. Bộ phần bên pH xe mô tô BKS 60B9-264.xx va chạm với bộ phận bên trái của xe mô tô 19K7-05xx, bánh xe phía trước xe mô tô BKS: 19L1 – 222.xx va chạm vào lốc máy xe mô tô BKS 19K7-05xx. Kết quả khám nghiệm tử thi: Trên cơ thể anh Nguyễn Văn H có các tổn thương sây sát da, tụ máu. Chấn thương sọ não: tụ máu quanh mi mắt bên trái, lỗ tai pH có máu. Tụ máu tổ chức dưới da đầu vùng chẩm, vỡ rạn xương chẩm, chảy máu qua đường vỡ xương. Tại các các bản kết luận khám nghiệm tử thi số 1537, 1539 cùng ngày 11/11/2022; số 1551 ngày 14/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: Tử thi Nguyễn Văn H không tìm thấy chất ma túy, nồng độ cồn. Nguyên nhân chết của anh Nguyễn Văn H là do chấn thương sọ não.

Khi điều khiển xe mô tô Trần Văn T có giấy phép lái xe đúng quy định, trong hơi thở không có nồng độ cồn, chất ma túy.

Cơ quan điều tra đã tiến hành định giá tài sản đối với các bộ phận bị hư hỏng của các xe mô tô. Tại Các Bản kết luận định giá tài sản số 81, 82, 83 cùng ngày 29/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản – UBND huyện Thanh Sơn kết luận Trị giá tài sản các bộ phận bị hư hỏng của các xe mô tô BKS 19K7-05xx là 610.000 đồng; xe mô tô BKS: 19L1-222.xx là 300.000 đồng; xe mô tô BKS: 60B9-264.xx là 1.850.000 đồng.

Trên cơ sở tài liệu đã thu thập được, ngày 23/12/2023 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Sơn đã Quyết định Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Trần Văn T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại Khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự. Quyết định của Cơ quan điều tra đã được Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn phê chuẩn.

Quá trình giải quyết và tại phiên tòa đại diện gia đình bị hại xác nhận: Sau khi tai nạn xảy ra, Trần Văn T đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho gia đình anh Nguyễn Văn H với tổng số tiền 120.000.000 đồng bao gồm tiền tổn thất về con người, tinh thần và sửa chữa xe mô tô. Đại điện gia đình đã nhận đủ tiền và không có yêu cầu đề nghị gì thêm. Đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T.

Quá trình giải quyết và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – anh Phan Văn P không yêu cầu gì về tiền sửa chữa xe và không yêu cầu bồi thường gì.

Tại bản cáo trạng số: 18/CT-VKSThS ngày 05 tháng 4 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn không thay đổi, bổ sung cáo trạng, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T từ 24 đến 30 tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ thu nhập bị cáo từ 5% đến 10% thu nhập thực tế của bị cáo là 5.500.000đ/ tháng trong thời gian cải tạo không giam giữ để sung quỹ Nhà nước.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Văn T.

Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận bị cáo Trần Văn T đã tự nguyện bồi thường cho đại diện gia đình bị hại số tiền 120.000.000đ, đại diện gia đình bị hại đã nhận đủ và không có ý kiến gì khác.

Về vật chứng và đồ vật tạm giữ của vụ án: Áp dụng: Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Xác nhận Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Sơn đã trả lại đồ vật, tài sản tạm giữ gồm: Xe mô tô Biển kiểm soát 60B9-264.xx thuộc quyền sở hữu của Trần Văn T; xe mô tô BKS: 19L1-222.xx thuộc quyền sở hữu của anh Phan Văn P; Xe mô tô BKS: 19K7-05xx thuộc quyền sở hữu của chị Đào Thị M (là vợ của anh Nguyễn Văn H) là phù hợp.

Trả lại cho bị cáo 01 Giấy phép lái xe mang tên Trần Văn T. Về án phí: Bị cáo pH chịu án phí theo quy định của pháp luật. Không ai có ý kiến tranh luận gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo Trần Văn T xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt để bị cáo được cải tạo tại địa P.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử: Đã thực hiện đúng thẩm quyền; đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo, người đại diện cho người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều nhất trí và không có ý kiến gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] . Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận hành vi vi phạm pháp luật của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố. Hành vi của bị cáo còn được chứng M bằng các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đầy đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 03/11/2022 tại tỉnh lộ 317G thuộc khu Đa Nghệ, xã Thắng Sơn, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, Trần Văn T điểu khiển xe mô tô Biển kiểm soát 60B9-264.xx không tuân thủ các quy tắc giao thông vi phạm quy định về “Khoảng cách giữa các xe” “Vượt xe” tại Điều 12, Điều 14 Luật giao thông đường bộ dẫn tới gây tai nạn với xe mô tô Biển kiểm soát 19K7-05xx do anh Nguyễn Văn H điều khiển đi cùng chiều làm anh H tử vong. Hành vi của Trần Văn T đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1, Điều 260 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự quy định như sau:

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người.” [3]. Nhận định về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn khi tham gia giao thông đường bộ, đồng thời xâm phạm đến tính mạng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa P.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của người khác nhưng do coi thường pháp luật, không chấp hành các quy định khi tham gia giao thông đã gây thiệt hại cho tính mạng của anh H, do đó cần xử lý đối với bị cáo bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Văn T không pH chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại, đại diện cho gia đình người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xem xét tích chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo T, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Trần Văn T có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy nên cho bị cáo được hưởng mức án cải tạo tại địa P cũng đủ để bị cáo cải tạo trở thành người công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội đồng thời thể hiện tính khoan hồng của pháp luật. Mức hình phạt mà đại diện VKSND huyện Thanh Sơn đề nghị là phù hợp.

Theo quy định tại khoản 3 điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015 thì bị cáo Trần Văn T bị phạt cải tạo không giam giữ còn pH bị khấu trừ một khoản thu nhập từ 5% đến 20% để sung công quỹ nhà nước. HĐXX xét thấy bị cáo đang trong độ tuổi lao động, có thu nhập 5.500.000đ/ tháng nên khấu trừ 5% thu nhập của bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ để sung quỹ Nhà nước là phù hợp.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 thì bị cáo còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. HĐXX xét thấy không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[7]. Về trách nhiệm dân sự:

Xác nhận bị cáo Trần Văn T đã tự nguyện bồi thường cho đại diện gia đình bị hại số tiền 120.000.000đ, đại diện gia đình bị hại đã nhận đủ và không có ý kiến gì khác.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – anh Phan Văn P không có yêu cầu gì về bồi thường hư hỏng xe nên HĐXX không xem xét.

[8]. Về vật chứng vụ án:

Đối với tài sản tạm giữ gồm: Xe mô tô Biển kiểm soát 60B9-264.xx thuộc quyền sở hữu của Trần Văn T; xe mô tô BKS: 19L1-222.xx thuộc quyền sở hữu của anh Phan Văn P; Xe mô tô BKS: 19K7-05xx thuộc quyền sở hữu của chị Đào Thị M (là vợ của anh Nguyễn Văn H). Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho các chủ sở hữu là đúng quy định, vì vậy chỉ cần xác nhận là phù hợp.

Đối với 01 giấy phép lái xe số 250152007525 do Sở giao thông vận tải cấp ngày 25/6/2015 mang tên Trần Văn T. Do không áp dụng hình phạt bổ sung nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.

[9]. Các vấn đề khác:

Đối với anh Phan Văn P ngày 03/11/2022 điều khiển xe đi sau xe của anh H. Sau khi Trần Văn T vượt xe gây tai nạn, do tình huống xảy ra nhanh, bất ngờ nên anh P không thể tránh được đã đâm vào xe mô tô của anh H đang đổ ra đường. Anh P đâm vào xe anh H sau khi va chạm giữ xe mô tô của Trần Văn T và xe mô tô của anh H đã xảy ra nên anh P không pH chịu trách nhiệm đối với việc va chạm này. Bản thân anh P không bị thương tích gì nên anh P không để nghị bồi thường hay yêu cầu xử lý gì.

[10]. Án phí: Bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11]. Quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện gia đình bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt:

Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ".

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T 24 (Hai mươi tư) tháng cải tạo không giam giữ.

Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với bị cáo tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện nơi bị cáo cư trú nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Trần Văn T cho UBND xã V, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo T có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa P trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Trong trường hợp bị cáo Trần Văn T thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo đúng quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ của Luật thi hành án hình sự.

Khấu trừ 5% thu nhập đối với bị cáo Trần Văn T. cụ thể: 5.500.000đ x 5% = 275.000đ/ tháng trong thời gian cải tạo không giam giữ để sung quỹ Nhà nước.

Trường hợp bị cáo Trần Văn T không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì pH thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong một tuần.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Văn T.

Hủy lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 58/LCCT-TA ngày 12/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn.

2. Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận bị cáo Trần Văn T đã tự nguyện bồi thường cho đại diện gia đình bị hại số tiền 120.000.000đ, đại diện gia đình bị hại đã nhận đủ và không có ý kiến gì khác.

3. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Xác nhận ngày 18/12/2022 Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Sơn đã trả lại đồ vật, tài sản tạm giữ gồm: Xe mô tô Biển kiểm soát 60B9-264.xx thuộc quyền sở hữu của Trần Văn T; xe mô tô BKS: 19L1-222.xx thuộc quyền sở hữu của anh Phan Văn P; Xe mô tô BKS: 19K7-05xx thuộc quyền sở hữu của chị Đào Thị M (là vợ của anh Nguyễn Văn H).

Trả lại cho bị cáo Trần Văn T 01 giấy phép lái xe số 250152007525 do Sở giao thông vận tải cấp ngày 25/6/2015 mang tên Trần Văn T.

Vật chứng là đồ vật đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra bàn giao cho cơ quan Thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 17/5/2023.

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Buộc bị cáo Trần Văn T pH chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện gia đình bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 27/2023/HS-ST

Số hiệu:27/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về