Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 256/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 256/2023/HS-ST NGÀY 21/11/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 21 tháng 11 năm 2023, tại Phòng xử án, Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 218/2023/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 225/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Q đối với bị cáo:

Họ và tên: Đinh Thành V; tên gọi khác: không; giới tính: Nam; sinh ngày 02/4/1996, tại thành phố, tỉnh Q; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, thành phố H, tỉnh Q; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Đinh Văn Đ và bà Phạm Thị A; có vợ và 01 con; tiền án, tiền sự: chưa có; bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm; hiện tại ngoại tại nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện của bị hại: Anh Triệu Quý Đ1, sinh năm 2001;

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, thành phố H, tỉnh Q Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Trung T, sinh năm 1990;

Địa chỉ: Số A đường A, phường V, quận H, thành phố Hà Nội.

Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Chị Phạm Thị H, sinh năm 2000;

Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, thành phố H, tỉnh Q;

Có mặt tại phiên tòa

- Người làm chứng:

1. Anh Trần Đức M, sinh năm 1994;

Địa chỉ: Thôn H, xã S, thành phố H, tỉnh Q; vắng mặt.

2. Anh Phạm Văn H1, sinh năm 1978;

Địa chỉ: Tổ A, khu T, phường H, thành phố H, tỉnh Q; vắng mặt.

3. Anh Đào Quang S, sinh năm 1993;

Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, thành phố H, tỉnh Q; vắng mặt.

4. Anh Đinh Văn Đ, sinh năm 1964;

Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, thành phố H, tỉnh Q; có mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 04/7/2023, Đinh Thành V (có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe ôtô nhãn hiệu Ford Ranger biển kiểm soát (BKS) 14C - xxxxx theo hướng xã T đi phường H, thành phố H. Khi đi đến Km 7+300, tỉnh lộ 326, thuộc thôn H, xã S, thành phố H. V điều khiển xe ôtô đi sang làn đường ngược chiều, dẫn đến phần đầu bên phải xe ôtô do V điều khiển đã đâm xe môtô BKS 29T1-xxxxx do anh Triệu Đức L, sinh năm 1976, trú tại thôn Đ, xã Đ, thành phố H điều khiển đi hướng ngược chiều, gây tai nạn. Hậu quả: Anh T bị thương, tử vong trên đường đưa đi cấp cứu, xe ô tô BKS 14C-xxxxx và xe môtô BKS 29T1-xxxxx bị hư hỏng.

Khám nghiệm hiện trường xác định: Vị trí xảy ra tai nạn là đường hai chiều, đường thẳng, giữa đường có vạch sơn đơn đứt nét phân chia hai chiều đường bằng nhau, toàn bộ mặt đường rộng 7,95 mét, hai bên đường có lề đất, không có đèn chiếu sáng. Khám nghiệm hiện trường theo hướng từ xã T về phường H, các số đo vào mép đường bên phải. Tấy cột mốc Km H3/7 bên trái đường làm điểm cố định. Hiện trường để lại 08 (tám) dấu vết ở làn đường bên trái, gồm: vết tỳ miết màu đen kích thước (0,76x0,07) mét, ký hiệu (1); vết lốp kích thước (10,8,4x0,15) mét, ký hiệu (2); Đám vết đất bắn tóe trên diện (2,5x0,7) mét, ký hiệu (3); Đám mảnh vỡ rải rác trên diện (25,3x7)m, ký hiệu (4); vết xước, kích thước (25,3x0,96)mét, ký hiệu (5); Xe ôtô BKS 14C-xxxxx, ký hiệu (6); Đám máu không có rõ hình, kích thước (1,3x1,1)m, ký hiệu (7); Xe môtô BKS 29T1-xxxxx, ký hiệu (8). Điểm đầu và điểm cuối vết tỳ miết (1) cách mép phải đường lần lượt là 4,85 mét và 5 mét. Vết lốp (2) cách điểm đầu vết (1) 0,25m về phía Hoành Bồ, chếch sang phải, điểm đầu vết lốp (2) cách mép phải đường 4,65 mét và điểm cuối vết lốp (2) trùng với vị trí lốp bánh trước bên phải xe ôtô BKS 14C-xxxxx tỳ trên mặt đường. Điểm đầu đám vết đất (3) trùng với điểm vết lốp (2), hướng Thống Nhất về H, điểm đầu và điểm cuối cách mép đường lần lượt là 4,65m và 4,3m. Điểm đầu đám mảnh vỡ (4) cách điểm đầu vết lốp (2) 4,6m về phía Hoành Bồ, cách mép đường là 4,3m, điểm cuối đám mảnh vỡ (4) rải rác đến vị trí xe môtô BKS 29T1- xxxxx. Điểm đầu vết xước (5) cách điểm đầu vết lốp (2) 5,5m về phía Hoành Bồ có hướng từ T về H, chếch bên phải, cách mép đường là 4,4m, điểm cuối vết xước (5) vết trùng với vị trí xe mô tô BKS 29T1- xxxxx đổ tỳ trên đường. Xe ôtô BKS 14C-xxxxx (6) đỗ trên phần đường bên trái theo hướng Thống Nhất về H, đầu xe hướng Hoành Bồ, đuôi xe hướng Thống Nhất, trục bánh trước và trục bánh sau bên phải cách mép phải đường lần lượt là 5,2 mét và 5 mét(6). Đám máu (7) cách điểm đầu vết lốp (2) 8,05m về phía Hoành Bồ, chếch sang bên phải, tâm đám máu (7) cách mép phải đường là 1,7m. Xe môtô BKS 29T1-xxxxx ký hiệu số (8), đổ nghiêng bên trái, đầu xe hướng phía tâm đường, đuôi xe hướng phía mép đường phải, đầu trục bánh trước xe môtô cách mép phải đường là 3,2m, cách trục bánh trước bên phải xe ôtô BKS 14C-xxxxx là 19,9m, đầu trục bánh sau xe mô tô cách mép phải đường là 2,25m.

Tại biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông xác định:

- Xe ôtô BKS 14C-xxxxx thể hiện: Bên phải ba đờ xốc trước bị tỳ chùi mất bụi, xước sơn, nứt vỡ nhựa mất mảnh, bám dính đất và chất màu vàng hướng tư trước về sau; Phía bên phải mặt canăng bị tỳ chùi mất bụi, xước sơn nứt vỡ nhựa rải rác dính chất màu vàng, hướng từ trước về sau, từ trái sang phải; Cụm đèn chiếu sáng, xi nhan trước bên phải dập vỡ, xô lệch hướng từ trước về sau; Khung xe phía trước bên phải bị tỳ chùi mất bụi, xước sơn, bẹp lõm kim loại dính chất màu đen và màu vàng, hướng từ trước về sau, từ trái sang phải; Mặt trước còng chữ A bánh trước bên phải có vết tỳ chùi mất bụi; Trên mặt lăn lốp bánh trước bên phải có vết trượt xước cao su trên toàn bộ cung tròn của lốp; Phần phía trước tại xe bên phải bị tỳ xước, bong sơn, bẹp móp cong vềnh kim loại, gây xô lệch tại xe hướng từ trước về sau tỳ sát vào cánh cửa trước bên phải; Phần phía trước bên phải nắp capo bị tỳ chùi mất bụi, cong vềnh kim loại, hướng từ trước về sau, từ trên xuống dưới bám dính máu và chất màu vàng; Mặt trước ốp gương chiếu hậu bên phải có đám vết tỳ chùi mất bụi, rải rác bám dính máu, hướng từ trước về sau; Mặt ngoài cánh cửa trước bên phải có vết tỳ chùi mất bụi bám dính chất màu đen, hướng từ trước về sau. Hệ thống lái, còi, phanh, lốp, gạt mưa đầy đủ, kiểm tra có tác dụng.

- Xe môtô BKS 29T1- xxxxx thể hiện: Khung xe phía trước, hai càng giảm xóc phía trước, bị xô lệch hướng từ trước về sau, từ phải sang trái, vành trước bị cong vềnh biến dạng. Mặt trước càng giảm xóc trước bên phải bị tỳ xước kim loại hướng từ trước về sau. Mặt ngoài đầu bu lông bên trái càng giảm xóc trước có vết tỳ chùi mất bụi đất, hướng từ trước về sau. Toàn bộ phần đầu xe, cánh yếm bị tỳ xước, dập vỡ nhựa, hướng từ trước về sau.. Phanh trước, phanh sau đủ bộ phận, phanh trước có bóp tay phanh thấy có lực đàn hồi, phanh sau có tác dụng. Hệ thống đèn, đầy đủ, không kiểm tra được do không mở được máy xe.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 180/KLGĐTT-TTPY ngày 06/7/2023 của Trung tâm pháp y, Sở Y, kết luận: Nguyên nhân Triệu Đức L chết là do sốc mất máu tối cấp - Suy tuần hoàn do chấn thương ngực kín vỡ tim, chấn thương bụng kín vỡ gan/Nồng độ Ethanol trong máu 323,08mg/100ml Tại bản kết luận định giá tài sản số 158 ngày 23/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản thành phố H, kết luận: Giá trị thiệt hại của xe môtô BKS 29T1-xxxxx là 1,390.000đ (Một triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng) Tại bản Cáo trạng số 218/CT-VKS-ĐT ngày 19 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Q đã truy tố bị cáo Đinh Thành V về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như nội dung bản Cáo trạng; đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Đinh Thành V phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ - Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Thành V 15 đến 18 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 đến 36 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, thành phố H cùng gia đình có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: trả 01 giấy phép lái xe cho bị cáo.

Trong quá trình điều tra, người đại diện của bị hại anh Triệu Quý Đ1 có lời khai thể hiện quan điểm: giữa bị cáo Đinh Thành V với gia đình bị hại đã giải quyết dứt điểm vấn đề bồi thường dân sự; đề nghị được miễn giảm trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và không còn yêu cầu hay đề nghị gì khác đối với Đinh Thành V.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Trung T trình bày quan điểm: Khoảng giữa năm 2022, do không có nhu cầu sử dụng nên anh T1 đã bán chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RS biển kiểm soát 29T1- xxxxx cho một người đàn ông tên là Triệu Đức L, hai bên đã làm giấy bán xe cho nhau nên hiện tại anh T1 không còn quản lý, sử dụng chiếc xe mô tô trên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị H trình bày: Chị không biết việc bị cáo V lái xe gây tai nạn cho bị hại Triệu Đức L, chỉ đến khi bị cáo V báo tin cho chị H thì chị H mới biết sự việc. Chiếc xe ô tô nhãn hiệu Ford Ranger biển kiểm soát 14C - xxxxx là tài sản chung của chị và bị cáo Đinh Thành V, chị đã được nhận lại xe và không có yêu cầu gì khác.

Bị cáo Đinh Thành V thừa nhận mọi hành vi như bản cáo trạng đã truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thành phố H và điều tra viên; của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H và kim sát viên: Trong quá trình điều tra và truy tố, cơ quan Điều tra Công an thành phố H và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra và truy tố. Vì vậy, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về đánh giá chứng cứ:

Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Thành V khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời khai này phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của những người làm chứng. Lời khai của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án như: biên bản, sơ đồ, bản ảnh khám nghiệm hiện trường; biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông ... Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 04/7/2023, Đinh Thành V (có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe ôtô nhãn hiệu Ford Ranger BKS 14C-xxxxx theo hướng xã T đi phường H, thành phố H. Khi đi đến Km 7+300, đường tỉnh lộ 326, thuộc thôn H, xã S, thành phố H. Do V điều khiển xe ôtô đi không đúng làn đường, phần đường quy định, nên đã đâm vào xe môtô BKS 29T1-xxxxx do anh Triệu Đức L điều khiển đi hướng ngược chiều. Hậu quả: Anh L bị tử vong, xe mô tô BKS 29T1-xxxxx bị hư hỏng thiệt hại 1.390.000đ (Một triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng).

[3] Hành vi nêu trên của bị cáo Đinh Thành V đã vi phạm khoản 1 Điều 9; Luật Giao thông đường bộ, trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ - là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Bị cáo là người đã trưởng thành, được đào tạo và cấp giấy phép lái xe ô tô theo quy định, nên bị cáo là người hiểu rất rõ những quy định của Luật giao thông đường bộ và trách nhiệm của người tham gia giao thông là phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định đó. Hậu quả: Anh L bị tử vong, xe mô tô BKS 29T1-xxxxx bị hư hỏng thiệt hại 1.390.000đ (Một triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng). Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

[4] Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H và quan điểm của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên tòa theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là hoàn toàn có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan. Việc đưa bị cáo ra xét xử công khai và áp dụng một mức hình phạt tương xứng với hành vi bị cáo đã gây ra là cần thiết.

[5] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: không có.

Tình tiết giảm nhẹ: sau khi phạm tội bị cáo đã chủ động đến cơ quan công an đầu thú; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn; chủ động bồi thường thiệt hại cho người bị hại; người bị hại có một phần lỗi khi điều khiển xe mô tô khi trong người có nồng độ cồn; gia đình người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về quyết định hình phạt:

Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như trên nên có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt. Mặt khác, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, căn cứ vào khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự và theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 (sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018) của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo, có thể cho bị cáo được hưởng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.

[7] Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo làm công nhân, không vi phạm quy tắc nghề nghiệp; sự việc xảy ra do một phần lỗi của người bị hại nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Thiệt hại về người và tài sản đã được bị cáo và gia đình người bị hại giải quyết xong, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[9] Về vật chứng vụ án:

- Đối với xe ô tô biển kiểm soát 14C- xxxxx cùng giấy tờ liên quan là tài sản hợp pháp của bị cáo và vợ là chị Phạm Thị H. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho gia đình bị cáo Đinh Thành V, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

- Đối với xe mô tô biển kiểm soát 29T1- xxxxx mang tên chủ xe Nguyễn Trung T. Quá trình điều tra, anh Nguyễn Trung T có lời khai thể hiện anh đã bán chiếc xe này cho bị hại Triệu Đức L. Cơ quan Điều tra đã tiến hành trả lại chiếc xe trên cho đại diện gia đình người bị hại nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

- Đối với 01 giấy phép lái xe ô tô mang tên Đinh Thành V là giấy tờ cá nhân cần trả lại cho bị cáo.

[10] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: bị cáo, đại diện hợp pháp người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đinh Thành V phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt: bị cáo Đinh Thành V 15 (mười lăm) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, thành phố H, tỉnh Q giám sát giáo dục trong thời gian thử thách; gia đình bị cáo Đinh Thành V có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã T, thành phố H, tỉnh Q cùng gia đình có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục bị cáo Đinh Thành V;

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả cho bị cáo 01 giấy phép lái xe ô tô mang tên Đinh Thành V.

Áp dụng: Khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Đinh Thành V phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo và chị Phạm Thị H biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo cho đại diện người bị hại và anh Nguyễn Trung T biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 256/2023/HS-ST

Số hiệu:256/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về