Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 23/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 23/2022/HS-ST NGÀY 10/08/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 10 Tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 18/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo: T T T T, sinh ngày 04-6-1988 tại huyện C P, tỉnh An Giang; Nơi cư trú: Số nhà 60, Tổ 4, ấp B T, xã B P, huyện C P, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Nông dân (làm ruộng); Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông T V H, sinh năm 1941 và bà L T M, sinh năm 1944; Có chồng tên Y C W, sinh năm 1983, chết năm 2018, không có con; Tiền án: Chưa; Tiền sự: Chưa; Nhân thân: không; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 03 ngày 05-8-2022 từ ngày 08-8-2022 cho đến ngày 22-9-2022.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư H H P – Văn phòng Luật sư H H P, Đoàn Luật sự tỉnh An Giang Địa chỉ: Số nhà 1058, đường T H Đ, Tổ 01, khóm B L 4, phường M B, thành phố L X, tỉnh An Giang.

Có mặt tại phiên toà.

- Bị hại: Anh L T H, sinh năm 1991; chết ngày 03-02-2022 Nơi cư trú: Ấp L T, xã L Đ B, huyện C M, tỉnh An Giang.

Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1/ Ông N V T, sinh năm 1956 – là cha ruột Vắng mặt tại phiên toà.

2/ Bà H T T, sinh năm 1961 – là mẹ ruột Có mặt tại phiên toà.

Nơi cư trú: Ấp L T, xã L Đ B, huyện C M, tỉnh An Giang.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh N A T, sinh ngày 17-3-2005 ĐKHKTT: Xã T C, huyện T B, tỉnh Đồng Nai.

Nơi cư trú: Số nhà 417/41, khóm B Đ 4, phường B Đ, thành phố L X, tỉnh An Giang.

Có mặt tại phiên toà.

- Người làm chứng:

1/ Bà C B N, sinh ngày 10-01-1996 Nơi cư trú: Khóm L T D, phường L T, thị xã T C, tỉnh An Giang Vắng mặt tại phiên toà.

2/ Ông N V Q, sinh năm 1987 Nơi cư trú: Ấp L T, xã L Đ B, huyện C M, tỉnh An Giang. Vắng mặt tại phiên toà.

3/ Ông T V T, sinh năm 1975 Nơi cư trú: Số nhà 60, Tổ 4, ấp B T, xã B P, huyện C P, tỉnh An Giang. Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

a)Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 10 giờ 30 phút; ngày 23-01-2022, T T T T điều khiển xe mô tô biển số 67N8 – 5687 chở theo anh N A T ngồi phía sau ôm 01 cái bao đựng quần áo dài khoảng 01m nằm giữa theo chiều ngang không đảm bảo an toàn, tham gia giao thông đường bộ trên Quốc lộ 91 theo hướng L X – C Đ. khi đến khu vực Km 68 + 600 thuộc khóm H P IV, thị trấn A C, huyện C T, tỉnh An Giang; T điều khiển xe vượt lên bên trái xe mô tô biển số 67L2 – 497.52 do ông L T H điều khiển chạy cùng chiều phía trước. Lúc này, bao đựng quần áo móc vào tay cầm bên trái của xe mô tô biển số 67L2 – 497.52 làm ông H té xuống đường. Hậu quả ông H bị thương nặng được bà T và anh N A T đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang. Đến ngày 03-02-2022 thì tử vong. Xe mô tô biển số 67L2 – 497.5 bị hư hỏng.

Ngay sau khi tai nạn xảy ra, Phòng Cảnh sát Giao thông Đường bộ – Công an tỉnh An Giang tiếp nhận tin báo, tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông. Đồng thời tạm giữ xe mô tô biển số 67N8 – 5687, xe mô tô biển số 67L2 – 497.52 và báo tin đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện Châu Thành; trưng cầu giám định và tiến hành khám nghiệm tử thi.

Ngày 07-4-2022, Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện Châu Thành khởi tố vụ án số 20 và khởi tố bị can số 14 đối với T T T T để điều tra, ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 06.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa: Bị cáo T T T T khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung vụ án đã nêu.

Tại phiên tòa Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Không phát biểu tranh luận về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt như đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đã tuy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng mức hình phạt thấp nhất tạo điều kiện cho bị cáo lao động chăm sóc cha mẹ già. Về trách nhiệm dân sự không có ý kiến tranh luận, thống nhất theo đề nghị của đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành.

Trong quá trình điều tra:

Người đại diện hợp pháp của bị hại ông N V T và bà H T T trình bày: Ông bà là cha mẹ ruột của nạn nhân L T H. Yêu cầu T bồi thường trách nhiệm dân sự với số tiền là 50.000.000 đồng, hiện tại ông bà đã nhận số tiền 30.000.000 đồng và làm đơn xin miễn trách nhiệm hình sự đối với T. Hiện nay, đã nhận lại xe mô tô biển số: 67L2 – 497.52, số máy: JA39E2033982, số khung: RLHJA3927LY032134; Giấy phép lái xe hạng A1, số: 700184008749, tên L T H; Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số: 67L2 – 497.52.

Người làm chứng bà C B N trình bày: Bà sống chung như vợ chồng với L T H nhưng không đăng ký kết hôn và không có con chung, bà đồng ý để bà H T T đại diện giải quyết vụ tai nạn giao thông của H.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh N A T; người làm chứng ông N V Q, ông T V T trình bày phù hợp với nội dung vụ án đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố; hành vi của bị cáo T T T T đủ yếu tố cấu thành tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Bị cáo đã có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 67N8 – 5687 chở theo anh N A T ngồi phía sau ôm 01 cái bao đựng quần áo dài khoảng 01m nằm giữa theo chiều ngang không đảm bảo an toàn, tham gia giao thông đường bộ trên Quốc lộ 91 theo hướng L X – C Đ. khi đến khu vực Km 68 + 600 thuộc khóm H P IV, thị trấn A C, huyện C T, tỉnh An Giang; T điều khiển xe vượt lên bên trái xe mô tô biển số 67L2 – 497.52 do ông L T H điều khiển chạy cùng chiều phía trước. Lúc này, bao đựng quần áo móc vào tay cầm bên trái của xe mô tô biển số 67L2 – 497.52 làm ông H té xuống đường. Hậu quả ông H chết trong quá trình cấp cứu, xe mô tô biển số 67L2 – 497.5 bị hư hỏng. Do đó, T phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này.

b)Về các vấn đề khác của vụ án:

Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông ngày 23-01- 2022, của Phòng Cảnh sát Giao thông đường bộ – Công an tỉnh An Giang ghi nhận: Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn giao thông là đường một chiều, đường có dãi phân cách cứng ở giữa, chiều rộng mặt đường 7m9, đoạn đường thẳng, tầm nhìn không bị che khuất, mặt đường làm bằng nhựa, đường phẳng; đoạn đường thuộc tuyến Quốc lộ 91.

Tại Biên bản khám nghiệm xe mô tô biển số 67N8 – 5687 vào ngày 23-01- 2022 của Phòng Cảnh sát Giao thông đường bộ – Công an tỉnh An Giang ghi nhận: Đèn tín hiệu phía trước bên phải có vết trầy xước, bửng chắn gió bên phải có vết trầy xước, Đèn tín hiệu phía sau bên trái bị gãy rời khỏi vị trí ban đầu.

Tại Biên bản khám nghiệm xe mô tô biển số 67L2 – 497.52 vào ngày 23- 01-2022 của Phòng Cảnh sát Giao thông đường bộ – Công an tỉnh An Giang ghi nhận: Gương chiếu hậu bên trái bị lệch khỏi vị trí ban đầu, ốp gương chiếu hậu bị trầy xước; gù tay cầm bên trái bị mày mòn; gờ phía sau bửng chắn gió trước bên trái có vết mài mòn; bửng chắn gió bên trái bị trầy xước và mài mòn răn nứt nhiều nơi; gác chân trước bên trái bị cong theo chiều hướng từ trước ra sau, từ trước lên trên và đầu gác chân bị mài mòn; gác chân sau bên trái bị gãy mất.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 31/2022/TT ngày 04-02- 2022 của Trung tâm pháp y thuộc sở y tế tỉnh An Giang xác định nguyên nhân chết của ông L T H: Chấn thương sọ não nặng, máu tụ trong não, dập phù não/ nhiễm SARS-CoV-2 Tại Bản kết luận định giá số 37/KL.HĐ ngày 15-4-2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang kết luận: Xe mô tô biển số 67L2 – 497.52, nhãn hiệu: Honda, loại: Wave Alpha, màu sơn: Xanh – Đen – Bạc, số máy: JA39E2033982, số khung: RLHJA3927LY032134, đã qua sử dụng. Các loại phụ tùng xe bị hư hỏng một phần và hư hỏng hoàn toàn cần phải sửa chữa, phục hồi, thay thế các loại phụ tùng trọn gói là 1.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về Biên bản khám nghiệm hiện trường; Biên bản khám nghiệm phương tiện; Biên bản khám nghiệm tử thi; kết luận giám định pháp y, kết luận định giá tài sản nêu trên.

Bản cáo trạng số 17/VKSCT-HS ngày 04-7-2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo T T T T về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 260 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử:

*Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 260; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Bị cáo tự nguyện sửa chữa, bồi thường toàn bộ thiệt hại, khắc phục hậu quả; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu; bị cáo chấp hành tốt lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn bãi nại, đề nghị không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1, khoản 2 Điều 51. Do đó, cần áp dụng Điều 65 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; xử phạt bị cáo T T T T mức án 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 03 (ba) năm đến 05 (năm) năm, kể từ ngày tuyên án 10-8-2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung.

*Phần bồi thường dân sự, tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của bị hại là bà H T T có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại do tài sản, tính mạng bị xâm phạm tổng cộng là 80.000.000 đồng. Bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người đại diện hợp pháp của bị hại là bà H T T là 50.000.000 đồng theo yêu cầu ban đầu; còn lại 30.000.000 đồng phát sinh tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.

*Vật chứng vụ án:

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện Châu Thành đã trao trả cho: Bà H T T là người đại diện hợp pháp của bị hại ông L T H xe mô tô biển số 67L2 – 497.52, nhãn hiệu: Honda, loại: Wave Alpha, màu sơn: Xanh – Đen – Bạc, số máy: JA39E2033982, số khung: RLHJA3927LY032134. Tên chủ sử dụng: L T H; Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 67L2 – 497.52 và Giấy phép lái xe hạng A1, số 700184008749 tên L T H.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện Châu Thành hiện còn đang giữ tang vật liên quan đến vụ án theo Quyết định chuyển vật chứng số 14/QĐ-VKSCT-HS ngày 04-7-2022 gồm:

01 giấy phép lái xe hạng A1 số AL 023644 do Sở Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 30-6-2009 cho T T T T, là tài sản của bị cáo, bị cáo có yêu cầu nhận lại. Căn cứ Điều 46 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại bị cáo.

01 xe mô tô biển số 67N8 – 5687, nhãn hiệu: YAMAHA, loại xe: NOUVO, màu sơn: Đen – Đỏ, số máy: 055662, số khung: 055668. Tên chủ sử dụng: T V T và Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 67N8 – 5687 là tài sản của bị cáo, bị cáo có yêu cầu nhận lại. Do bị cáo còn phải bồi thường thiệt hại do tính mạng, tài sản bị xâm phạm. Căn cứ Điều 46 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án (khi bị cáo thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và án phí, thì trả lại tài sản cho bị cáo).

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã biết lỗi, bị cáo hối hận, bị cáo hứa sửa đổi, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong vụ án này có người đại diện hợp pháp của bị hại ông N V T và một số người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại đến việc xét xử giải quyết vụ án, mặt khác, những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra, khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của họ trước tòa. Căn cứ Điều 292 và Điều 293 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án: Như vậy đã có đủ căn cứ để xác định khoảng 10 giờ 30 phút ngày 23-01-2022, trên tuyến Quốc lộ 91 theo hướng L X – C Đ, tại khu vực Km 68 + 600 thuộc khóm H P IV, thị trấn A C, huyện C T, tỉnh An Giang T T T T điều khiển xe mô tô biển số 67N8 – 5687 chở theo anh N A T ngồi phía sau ôm 01 cái bao đựng quần áo dài khoảng 01m nằm giữa theo chiều ngang, không đảm bảo an toàn, T điều khiển xe vượt lên bên trái xe mô tô biển số 67L2 – 497.52 do ông L T H điều khiển chạy cùng chiều phía trước. Trong lúc vượt xe bên trái khi trên xe có chở theo vật cồng kềnh không đảm bảo an toàn, do T vô ý để bao đựng quần áo móc vào tay cầm bên trái của xe mô tô biển số 67L2 – 497.52 làm ông H mất thăng bằng, té xuống đường. Hậu quả ông H chết trong quá trình cấp cứu; xe mô tô biển số 67L2 – 497.52 bị hư hỏng, cần phải sửa chữa, phục hồi, thay thế các loại phụ tùng trọn gói là 1.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến tính mạng của bị hại ông H, làm hư hỏng tài sản tổng trị giá là 1.000.000 đồng; gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự an toàn công cộng tại địa phương và dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Theo quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì:

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) …;

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.” Như vậy, bị cáo T đã có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 67N8 – 5687 chở theo anh T ngồi phía sau ôm 01 cái bao đựng quần áo dài khoảng 01m nằm giữa theo chiều ngang không đảm bảo an toàn, tham gia giao thông đường bộ trên Quốc lộ 91 theo hướng L X – C Đ. Do T chạy xe vượt bên trái của xe mô tô biển số 67L2 – 497.52 do ông H điều khiển chạy cùng chiều phía trước, khi trên xe có chở theo vật cồng kềnh không đảm bảo an toàn; vi phạm vào khoản 23 Điều 8 và Điều 14 của Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 gây tai nạn làm chết một người nên đủ yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Trong những năm gần đây, tình hình tai nạn giao thông đường bộ diễn ra ngày càng nhiều, gây thiệt hại đáng kể đến tính mạng, sức khỏe và tài sản. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tai nạn là do người điều khiển phương tiện giao thông không tuân thủ luật giao thông đường bộ. Bị cáo T là người thành niên, có đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình, điều khiển xe mô tô là nguồn nguy hiểm cao độ; do T chạy xe chở theo vật cồng kềnh không đảm bảo an toàn và vượt bên trái không đảm bảo an toàn, gây tai nạn giao thông. Hậu quả là bị hại ông H tử vong. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những gây đau thương mất mát cho gia đình nạn nhân mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, gây lo lắng cho người tham gia giao thông. Với tính chất mức độ phạm tội, hậu quả bị cáo đã gây ra cho bị hại cần thiết phải có mức án tương xứng để xét xử bị cáo nhằm giáo dục cải tạo bị cáo trở thành những công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự, bị cáo vô ý phạm tội. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho gia đình của bị hại; bị cáo phạm tội lần đầu; bị cáo chấp hành tốt lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn bãi nại, đề nghị không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Từ sau khi thực hiện hành vi phạm tội cho đến khi có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bị cáo cũng không vi phạm pháp luật gì mới; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt; bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Căn cứ Điều 65 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15-4-2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, cần tạo điều kiện cho bị cáo tiếp tục lao động, làm lại cuộc đời; Hội đồng xét xử có cân nhắc xem xét nghĩ không cần thiết buộc bị cáo phải cách ly xã hội, mà có thể buộc bị cáo chấp hành hình phạt dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú, như đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đề nghị cũng đủ mức tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội; đồng thời vẫn đảm bảo được mục đích chống và phòng ngừa chung trong xã hội đối với loại tội phạm này.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình tố tụng và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị hại (ông L T H, chết ngày 03-02-2022) có ông N V T và bà H T T yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại do tính mạng, tài sản bị xâm phạm tổng cộng là 80.000.000 đồng. Bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người đại diện hợp pháp của bị hại có bà H T T nhận tổng cộng là 50.000.000 đồng. Căn cứ Điều 48 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Các Điều 584, 585, 586, 589 và 591 của Bộ Luật Dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xem xét buộc bị cáo phải bồi thường thêm cho người đại diện hợp pháp của bị hại (ông L T H, chết ngày 03-02-2022) có ông N V T và bà H T T số tiền 30.000.000 đồng.

[8] Về vật chứng của vụ án:

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện Châu Thành đã trao trả cho: Bà H T T là người đại diện hợp pháp của bị hại ông L T H xe mô tô biển số 67L2 – 497.52, nhãn hiệu: Honda, loại: Wave Alpha, màu sơn: Xanh – Đen – Bạc, số máy: JA39E2033982, số khung: RLHJA3927LY032134. Tên chủ sử dụng: L T H; Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 67L2 – 497.52 và Giấy phép lái xe hạng A1, số 700184008749 tên L T H.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện Châu Thành hiện còn đang giữ tang vật liên quan đến vụ án theo Quyết định chuyển vật chứng số 14/QĐ-VKSCT-HS ngày 04-7-2022 gồm:

01 giấy phép lái xe hạng A1 số AL 023644 do Sở Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 30-6-2009 cho T T T T, là tài sản của bị cáo, bị cáo có yêu cầu nhận lại. Căn cứ Điều 46 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử xem xét trả lại bị cáo khi bản án có hiệu lực pháp luật.

01 xe mô tô biển số 67N8 – 5687, nhãn hiệu: YAMAHA, loại xe: NOUVO, màu sơn: Đen – Đỏ, số máy: 055662, số khung: 055668. Tên chủ sử dụng: T V T và Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 67N8 – 5687 là tài sản của bị cáo, bị cáo có yêu cầu nhận lại. Do buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại do tính mạng, tài sản bị xâm phạm với số tiền còn lại là 30.000.000 đồng. Căn cứ Điều 46 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử xem xét giao Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án (khi bị cáo thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và án phí, thì trả lại tài sản cho bị cáo).

[9] Án phí: Căn cứ Điểm a, c khoản 1 Điều 23; Các Điều 26 và 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; Điều 136 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, tổng cộng là 1.700.000 đồng.

[10] Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự.

Bị cáo T T T T; người đại diện hợp pháp của bị hại bà H T T; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh N A T có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10-8-2022);

Người đại diện hợp pháp của bị hại ông N V T vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuyên bố bị cáo T T T T phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15-4-2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Xử phạt T T T T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Thời gian thử thách là 03 (ba) năm kể từ ngày tuyên án 10-8-2022.

Giao bị cáo T T T T Châu cho UBND xã B P, huyện C P, tỉnh An Giang để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo T T T T (người được hưởng án treo) cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo T phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo T phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào: Điều 48 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Các Điều 584, 585, 586, 589 và 591 của Bộ Luật Dân sự năm 2015. Buộc bị cáo T T T T phải tiếp tục bồi thường thiệt hại do tính mạng, tài sản bị xâm phạm cho người đại diện hợp pháp của bị hại (ông L T H, chết ngày 03-02- 2022) có ông N V T và bà H T T số tiền còn lại là 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).

Căn cứ vào: Điều 46 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự.

Giao Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành tiếp tục tạm giữ của bị cáo 01 xe mô tô biển số 67N8 – 5687, nhãn hiệu: YAMAHA, loại xe: NOUVO, màu sơn: Đen – Đỏ, số máy: 055662, số khung: 055668. Tên chủ sử dụng: T V T cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 67N8 – 5687 để đảm bảo cho việc thi hành án (khi bị cáo thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và án phí, thì trả lại tài sản cho bị cáo).

Trả lại bị cáo T T T T 01 giấy phép lái xe hạng A1 số AL 023644 mang tên T T T T, do Sở Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 30-6-2009, theo Quyết định chuyển vật chứng số 14/QĐ-VKSCT-HS ngày 04-7-2022, khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Căn cứ vào: Căn cứ Điểm a, c khoản 1 Điều 23; Các Điều 26 và 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; Điều 136 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 1.500.000đ án phí dân sự sơ thẩm, tổng cộng là 1.700.000đ (một triệu bảy trăm ngàn đồng).

Căn cứ vào: Điều 331 và Điều 333 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự.

Bị cáo T T T T; người đại diện hợp pháp của bị hại bà H T T; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh N A T có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10-8-2022);

Người đại diện hợp pháp của bị hại ông NVT vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự.

(Đã giải thích chế độ án treo cho bị cáo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 23/2022/HS-ST

Số hiệu:23/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về