Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 22/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SÔNG CẦU, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 22/2022/HS-ST NGÀY 04/05/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 04 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã S, tỉnh P, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2022/TLST- HS ngày 24 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2022, đối với bị cáo:

Dương Văn H; Tên gọi khác: Cường; Sinh năm 1967 tại Quảng Nam; Giới tính: Nam; Nơi thường trú: Thôn T, xã TH, thành phố P, tỉnh N; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Dương B, sinh năm 1942 (đã chết) và bà Nguyễn Thị B1, sinh năm 1945; Anh, em ruột: 09 người; Vợ: Trần Thị Huyền T, sinh năm 1972 (đã chết); Con: có 01 con, sinh năm 2013. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Nguyễn Văn B2 (đã chết) Có đại diện hợp pháp của bị hại là hàng thừa kế thứ nhất:

1./ Nguyễn Thị Trà G, sinh năm 1970 (Vợ của bị hại). Vắng mặt có đơn yêu cầu tòa án giải quyết vắng mặt

2./ Nguyễn Hữu T, sinh năm 1991 (Con ruột của bị hại). Vắng mặt có đơn yêu cầu tòa án giải quyết vắng mặt

3./ Nguyễn Thị Thương T2, sinh năm 1996 (Con ruột của bị hại). Có mặt

Cùng địa chỉ: Đường T, thành phố Q, B.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1./ Công ty Cổ phần Quản lý và sửa chữa đường bộ P. Địa chỉ trụ sở: Đường L, Phường 1, Thành phố T, tỉnh P.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đức H. Vắng mặt không có lý do.

2./ Vợ chồng bà Đặng Thị M, sinh năm 1978 và ông Liêu Trí T2, sinh năm 1980; Cùng địa chỉ: Đường H, phường 15, Quận 5, thành phố H

Bà M ủy quyền cho bị cáo Dương Văn H 1967; địa chỉ: Thôn Thôn T, xã TH, thành phố P, tỉnh N tham gia tố tụng trong vụ án theo hợp đồng ủy quyền ngày 12/3/2021 (BL193, 194), Bà M, ông T2 vắng mặt có đơn yêu cầu tòa án giải quyết vắng mặt.

3./ Ông Trịnh Quang M, sinh năm 1969; Địa chỉ: Thôn 2, xã X, thị xã S, tỉnh P. Vắng mặt không có lý do.

- Người làm chứng:

1./ Trần Ngọc Đ, sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn 2, xã X, thị xã S, tỉnh P 

2./ Võ Văn H, sinh năm 1980; Địa chỉ: Tổ 2, phường N, thị xã H, tỉnh H

3./ Trần Thị Kim L, sinh năm 1976; Địa chỉ:, khu phố 1, phường TT, Quận 12, thành phố H

4./ Nguyễn Văn H1, sinh năm 1994; Địa chỉ: Thôn 2, xã X, thị xã S, tỉnh P Tất cả người làm chứng đều vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 05 phút ngày 21/02/2021, Dương Văn H có giấy phép lái xe theo quy định điều khiển xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51D1-xxxxx kéo theo sơmi rơmooc biển kiểm soát 51R-xxxxx (xe của bà Đặng Thị M là chủ sở hữu) theo lộ trình từ tỉnh Lào Cai đến thành phố H, khi xe đang lưu hành theo hướng Bắc - Nam đến đoạn Km 25+100m Quốc lộ 1D thuộc thôn 2, xã Xuân Hải, thị xã S, tỉnh P thì H quan sát thấy ông Nguyễn Văn B2 đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 77L1-xxxxx lưu hành phía trước cùng chiều trên làn đường dành cho xe thô sơ, cả hai xe xuống dốc Bàn Than. Khi gần đến cuối dốc, đoạn cua qua bên trái theo hướng lưu hành, H điều khiển xe ô tô cua qua trái, lấn sang làn đường ngược chiều (làn đường dành cho xe cơ giới lưu hành hướng Nam – Bắc). Lúc này H phát hiện có 02 xe mô tô (không rõ biển kiểm soát) lưu hành hướng ngược chiều trên làn đường này thì H đạp phanh, đánh tay lái điều khiển cho xe ô tô 51D1-xxxxx về lại làn đường dành cho xe cơ giới bên phải để né tránh thì xe ô tô đầu kéo và sơ mi rơ mooc bị ngã, lật về bên phải rồi trượt dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam va chạm, đẩy xe mô tô 77L1-xxxxx cùng ông Nguyễn Văn B2 trượt trên đường, phần đầu của xe ô tô đầu kéo đè ông B2 cùng xe mô tô 77L1-xxxxx dưới mương thoát nước phía Tây QL1D. Hậu quả làm ông B2 chết tại chỗ, xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 51D1-xxxxx, xe mô tô biển kiểm soát 77L1-xxxxx, 01 phần hệ thống hộ lan mềm, mương thoát nước của QL1D và 02 tấm đanh bê tông của ông Trịnh Quang M bị hư hỏng.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 46/TgT ngày 16/3/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh P kết luận: Nguyên nhân chết của Nguyễn Văn B2 là do sốc đa chấn thương.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 39/KL-HĐĐG ngày 10/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã S kết luận: Xe mô tô biển kiểm soát 78L1-xxxxx thời điểm ngày 21/02/2021 phải thay thế, sửa chữa lại như mới có giá trị là 3.500.000 đồng. Chiếc xe này có giá trị còn lại là 0 đồng.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 33/KL-HĐĐG ngày 23/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã S kết luận: 02 tấm đanh phải sửa chữa, khắc phục như mới là 3.291.000 đồng, giá trị còn lại là 0 đồng. Hộ lan mềm, bộ báo tiêu chỉ hướng, cọc H1, rãnh mương thoát nước phải sửa chữa, khắc phục như mới là 44.526.000 đồng, giá trị còn lại là 0 đồng.

Vật chứng vụ án: Có bản kê kèm theo (BL 335).

Tại bản cáo trạng số: 12/CT-VKSSC ngày 23/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã S truy tố bị cáo Dương Văn H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ quyền công tố khẳng định: Cáo trạng số 12/CT-VKSSC ngày 23/3/2022 truy tố bị cáo Dương Văn H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, nên giữ nguyên bản cáo trạng truy tố của VKSND thị xã S đối với bị cáo Dương Văn H. Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Dương Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự, phạt bị cáo Dương Văn H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 03 năm đến 04 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Dương Văn H cho UBND xã Thành Hải, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh N giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố tình vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Luật thi hành án hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và đại diện hợp pháp gia đình bị hại thỏa thuận bồi thường xong tất cả thiệt hại và có đơn bãi nại về dân sự, đề nghị không xét.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 106 BLTTHS: Trả lại cho Dương Văn H 01 giấy phép lái xe hạng FC, số: 58092800013, do sở GTVT tỉnh Đồng Nai cấp ngày 28/8/2020, đứng tên Dương Văn H Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án; bị cáo xin được hưởng án treo vì vợ bị cáo đã mất, bị cáo còn phải nuôi con nhỏ.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất ăn năn, hối cải việc bị cáo đã vi phạm, bị cáo xin hứa sẽ không tái phạm đồng thời xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan Công an, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên thị xã S đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về sự vắng mặt của đại diện hợp pháp người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử vắng vắng mặt. Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng mặt không có lý do. Bị cáo đại diện hợp pháp cho bị hại có mặt cũng như kiểm sát viên tham gia phiên tòa không đề nghị hoãn phiên tòa. Xét việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho công tác xét xử và cũng không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nên Hội đồng thống nhất xét xử theo quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Dương Văn H tại phiên tòa sơ thẩm và tại Cơ quan điều tra phù hợp nhau, phù hợp với lời khai của đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 46/TgT ngày 16/3/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh P; Kết luận định giá tài sản số 39/KL-HĐĐG ngày 10/9/2021 của Hội đồng Định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự thị xã S;

Kết luận định giá tài sản số 33/KL-HĐĐG ngày 23/8/2021 của Hội đồng Định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự thị xã S và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ cơ sở xác định: Chính bị cáo Dương Văn H có giấy phép lái xe hạng FC theo quy định điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS 51D-xxxxx kéo theo sơ mi rơ móc BKS 51R-xxxxx thiếu quan sát, đi không đúng phần đường quy định gây tai nạn, hậu quả làm chết 01 người, đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

[3] Do đó, Quyết định truy tố tại bản Cáo trạng số 12/CT-VKSSC ngày 23/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã S và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan gì cho bị cáo.

[4] Xét về tính chất, hậu quả, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại đến tính mạng của người khác, ảnh hường xấu đến tình hình trật tự an toàn giao thông tại địa phương, bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc không tuân thủ chấp hành Luật giao thông đường bộ là sai. Nhưng chủ quan, cẩu thả đi không đúng phần đường gây hậu quả nghiêm trọng. Nên xử phạt bị cáo đúng với tính chất, mức độ, hậu quả bị cáo đã gây ra. Xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, kịp thời khắc phục toàn bộ hậu quả cho bị hại, được bị hại xin bãi nại về dân sự và giảm hình phạt, vợ bị cáo đã chết, hiện bị cáo trực tiếp nuôi con còn nhỏ, bị cáo phạm tội với lỗi vô ý, có nhân thân tốt. Nên không nhất thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội cũng đảm bảo tác dụng giáo dục đối bị cáo.

[5] Xét lời đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đại điện hợp pháp cho người bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong và bãi nại, nên không xét.

[9] Về vật chứng vụ án: Trả lại cho bị cáo Dương Văn H 01 giấy phép lái xe hạng FC, số: 58092800013, do sở GTVT tỉnh Đồng Nai cấp ngày 28/8/2020, đứng tên Dương Văn H.

[9] Về án phí: Bị cáo Dương Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 106 và 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; Điều 21 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Dương Văn H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

- Xử phạt bị cáo Dương Văn H 01 năm 06 tháng (một năm sáu tháng) tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Dương Văn H cho UBND xã Thành Hải, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh N giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố tình vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Luật thi hành án hình sự.

- Về hình phạt bổ sung: Không.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo, người liên quan và đại diện hợp pháp bị hại thỏa thuận xong, không xem xét.

3. Về vật chứng vụ án: Trả lại cho bị cáo Dương Văn H 01 giấy phép lái xe hạng FC, số: 58092800013, do sở GTVT tỉnh Đồng Nai cấp ngày 28/8/2020, đứng tên Dương Văn H (đang được lưu giữ tại hồ sơ vụ án).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Dương Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, riêng đại diện hợp pháp cho người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 22/2022/HS-ST

Số hiệu:22/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Sông Cầu - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về