Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 21/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ – TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 21/2022/HS-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 14 tháng 06 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/TLST-HS ngày 22 tháng 04 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 06 năm 2022 đối với bị cáo:

K’ L – sinh ngày: 22/02/2004, tại: Đ, Lâm Đồng;

Nơi cư trú: Thôn N, xã Q, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ văn hóa: 09/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Châu Mạ; Tôn giáo: Công Giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông K’ T1, sinh năm 1974 và bà Ka D, sinh năm 1978; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình. Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang được tại ngoại và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt)

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Vũ Cát Đ – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lâm Đồng. (Có mặt)

* Bị hại: Anh Đào Thế S, sinh năm: 1989 (Đã chết) Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Ông Đào Ngọc T, sinh năm: 1959 (Bố ruột của bị hại), trú tại: Số nhà A, thôn B, xã R, huyện R1, tỉnh Đắk Nông. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Những người làm chứng:

- Anh K’ K1, S ngày: 02/10/2008 Người giám hộ của anh K’ K1: Bà Ka H, sinh năm: 1984 (Mẹ ruột của anh K’ K1), cùng trú tại: Thôn K2, xã B1, huyện B2, tỉnh Lâm Đồng. (Có mặt)

- Anh Nguyễn Hữu Thanh S1, sinh năm: 1992, trú tại: Thôn A1, xã M, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 00 phút ngày 07/3/2021, K’ L không có giấy phép lái xe hạng A1, điều khiển xe mô tô không biển số, số máy VUMDCYG150FMG- 4P100469 chở phía sau K’ K1 đi theo hướng từ xã B1, huyện B2 về xã Q, huyện Đ, khi đến đoạn đường Km 166 + 500 đường ĐT 721 thuộc thôn A1, xã M, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng thì xảy ra va chạm với anh Đào Thế S, sinh năm 1989, trú tại xã R, huyện R1, tỉnh Đắk Nông đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 59G2 - A.59 đi từ hướng thị trấn Đ đi xã B1, huyện B2, tỉnh Lâm Đồng. Sau khi va chạm, cả L, K1 và anh S đều bị ngã xuống lòng đường. Hậu quả: Anh Đào Thế S tử vong tại chỗ, L và K1 được đưa đi cấp cứu.

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Đoạn đường xảy ra tai nạn giao thông là tại Km 166 + 500 đường ĐT 721 thuộc thôn A1, xã M, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Đoạn đường cong, mặt đường bê tông nhựa nóng, rộng 7m50; giữa đường không có vạch kẻ đường phân chia hai làn đường riêng biệt; Hai bên đường là lề đất. Khu vực hiện trường có đèn đường chiếu sáng, không có biển báo hiệu đường bộ. Chọn hướng khám nghiệm từ xã M đi thị trấn Đ; mép đường bên phải theo hướng khám nghiệm là mép đường chuẩn; chọn cột điện số 2126/117.20 ở lề đường bên trái làm mốc hiện trường ghi nhận vị trí các phương tiện, dấu vết như sau:

+ (01) là khu vực có nhiều mảnh vỡ nhựa, vết nhớt màu đen, ốp tay lái bằng cao su, vỏ lốc máy có kích thước 24cm x 25cm, tâm cách mép đường chuẩn 3,50m, cách điểm mốc 16m50, cách trục bánh xe sau (2) là 0,70m;

+ (02) là xe mô tô BKS 59G2 - A.59 bị đổ về bên phải của xe, đầu xe hướng về xã B1, huyện B2, đuôi xe hướng về thị trấn Đ. Trục bánh xe trước cách mép đường chuẩn 4m20, trục bánh xe sau cách mép đường chuẩn 3m80, cách tâm vết (3) là 1,10m, cách mốc 15,80m;

+ (03) là vị trí chiếc dép xốp màu đỏ và chiếc điện thoại di động, tâm cách mép đường chuẩn 5m60, cách đầu tử thi (4) là 1m10;

+ (04) là tử thi nam giới đội mũ bảo hiểm màu trắng, mặc áo khoác màu xám, quần thun dài màu đen nằm nghiêng bên phải, mặt hướng về xã B1 – B2, hai chân nằm ở dưới gầm xe mô tô BKS 59G2 - A.59. Đầu tử thi cách mép đường chuẩn 5m20, cách điểm mốc 15m, bàn chân phải tử thi cách mép đường chuẩn 4m10;

+ (05) là tổ hợp 02 vết chà xước đứt quãng trên mặt đường có kích thước lần lượt là: vết 1: 80cm x 01cm, vết 2: 30cm x 01cm có điểm đầu cách mép đường chuẩn 3,15m, điểm cuối cách mép đường chuẩn 2,50m, cách trục bánh sau xe mô tô (6) là 0,80m;

+ (6) xe mô tô không gắn biển số, có số máy VUMDCYG150FMG- 4P100469, xe đổ nghiêng về bên phải theo hướng khám nghiệm, đầu xe hướng về thị trấn Đ, đuôi xe hướng về xã B1, huyện B2. Trục bánh xe trước cách mép đường chuẩn 1m90, trục bánh xe sau cách mép đường chuẩn 1,75m, cách điểm mốc 16m20, cách tâm vết (7) là 0,50m;

+ (7) là vị trí dung dịch màu đỏ - đen có kích thước 30cm x 23cm, tâm vết cách mép đường chuẩn 2,20m, cách tâm vết (8) là 1,95m;

+ (8) Là vị trí dung dịch màu đỏ tươi trên mặt đường, kích thước 50cm x 50cm, tâm vết cách mép đường chuẩn 0,40m, cách tâm vết (9) 1,40m;

+ (9) Là vị trí dung dịch màu đỏ tươi trên mặt đường, có kích thước 90cm x 10cm, tâm vết cách mép đường chuẩn 1,80m.

- Tiến hành khám nghiệm phương tiện ghi nhận:

+ Xe mô tô biển kiểm soát 59G2- A.59 tại thời điểm khám nghiệm, công tắc đèn chiếu sáng phía trước đang trong trạng thái mở, đồng hồ công tơ mét bị nứt, vỡ phần kiếng, đèn chiếu sáng phía trước bị vỡ nát, chân gương chiếu hậu bên trái bị gãy, đèn xi nhan bên trái bị vỡ kính và cong về phía sau, hai phuộc trước của xe bị cong cúp về phía sau. Mặt nạ, chắn bùn bánh xe trước bên phải bị vỡ, mấu mắt của đèn báo hiệu gắn ở phuộc trước bên trái bị cà xước. Đầu dưới phuộc trước bên trái và đầu bù lon trục bánh xe trước bên trái bị cà lõm. Niềng bánh xe phía trước bị vỡ một đoạn dài 30cm. Xăm bánh xe trước bị bể xì hơi, giá để chân phía trước bên trái bị rách phần cao su bảo vệ. Hệ thống phanh hoạt động bình thường.

+ Xe mô tô không biển kiểm soát, có số máy VUMDCYG150FMG- 4P100469, xe không có hệ thống đèn chiếu sang, đèn xi nhan, thắng sau xe. Không có bộ phận nhựa và không có hệ thống điện. Trảng ba bị cong từ trước ra sau, hai phuộc nhún phía trước bị cong, Má ngoài mặt trước của phuộc nhún bên trái phía trước có vết cà xước màu đen, có kích thước 15cm x 03cm. Vành xe (niềng) phía trước bị cong, biến dạng. toàn bộ phần căm xe bánh xe trước bị bung ra khỏi vành xe. Má đùm phía trước xe bị xước S1 và móp. Nắp ốp lốc máy bên trái xe bị vỡ và bung ra khỏi lốc máy, bộ phận nắp đầu qui phía trước bên trái xe bị chà xước, có kích thước 02cm x 0,5cm. Cần số bị cong gập về phía sau xe.

- Về tình trạng phương tiện: Ngày 21/3/2022, Sở giao thông vận tải tỉnh Lâm Đồng kết luận giám định chiếc xe mô tô không biển kiểm soát, không có số khung, số máy VUMDCYG150FMG-4P100469 do K’ L điều khiển có dung tích xi lanh là 127,3 cm3.

Ngày 13/03/2021, Trung tâm pháp y tỉnh Lâm Đồng kết luận giám định pháp y xác định nguyên nhân anh Đào Thế S chết là do đa chấn hương do tai nạn giao thông.

Tại bản cáo trạng số 18/CT-VKSĐT ngày 21/04/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 91; Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 30 tháng đến 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ còn đề nghị xử lý về vật chứng và án phí theo quy định.

Người bào chữa cho bị cáo là ông Vũ Cát Đ – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lâm Đồng tranh luận: Đồng ý với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát và mức đề nghị xử phạt đối với bị cáo. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi và là người dân tộc thiểu số, trình độ thấp, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, đã bồi thường một phần trách nhiệm dân sự cho gia đình bị hại. Ngoài ra bị hại cũng có một phần lỗi khi tham gia giao thông dẫn đến tai nạn xảy ra và hậu quả thương vong ngoài mong muốn. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm và trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định tội:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng cũng như phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 07/3/2021, K’ L không có giấy phép lái xe theo quy định điều khiển xe mô tô không biển kiểm soát, số máy VUMDCYG150FMG-4P100469, không có số khung (loại xe 127,3cm3) chở theo K’ K1 đi theo đường ĐT 725 hướng từ xã Mỹ Đức, huyện Đ về xã Quốc Oai, huyện Đ. Khi đi đến đoạn Km 166 + 500 đường ĐT 721 thuộc thôn A1, xã M, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Khi L đang điều khiển xe đi ở giữa đường thì xảy ra va chạm với xe mô tô biển số 59G2 - A.59 do anh Đào Thế S điều khiển cũng đang đi ở giữa đường theo chiều ngược lại khiến anh S, K1 và L cùng bị ngã xuống đường. Hậu quả anh S bị tràn máu khoang ngực, dập gan, tràn dịch, máu ổ bụng, tử vong tại chỗ, còn L bị thương, phải điều trị tại bệnh viện. Như vậy, nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn giao thông là do cả K’ L và anh S.

Hành vi của bị cáo và anh S đã vi phạm quy tắc tham gia giao thông đường bộ quy định tại khoản 1, Điều 17 Luật Giao thông đường bộ về tránh xe đi ngược chiều: “Trên đường không phân chia thành hai chiều xe chạy riêng biệt, hai xe đi ngược chiều tránh nhau, người điều khiển phải giảm tốc độ và cho xe đi về bên phải theo chiều xe chạy của mình”, tuy nhiên do anh S đã chết nên không xem xét xử lý. Mặt khác, bị cáo điều khiển xe cơ giới có dung tích xylanh 127,3 cm3 nhưng không có giấy phép lái xe là vi phạm quy định về các hành vi bị nghiêm cấm tại khoản 9 Điều 8 của Luật Giao thông đường bộ.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội“Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự giao thông và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo không có giấy phép lái xe nhưng vẫn cố tình điều khiển xe đồng thời khi tham gia giao thông còn chở theo người khác và thiếu quan sát, không làm chủ tốc độ, không đi đúng phần đường quy định dẫn đến tai nạn thương vong. Điều này thể hiện sự thường pháp luật, coi thường tính mạng của người khác và tính mạng của cả bản thân bị cáo. Do vậy cần có hình phạt tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường trách nhiệm dân sự, vụ án xảy ra có lỗi của người bị hại đồng thời trong đơn xin xét xử vắng mặt người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Đào Ngọc T cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đó là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, khi phạm tội bị cáo là người chưa đủ 18 tuổi nên cần xem xét áp dụng một hình phạt phù hợp với quy định tại Điều 91 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo tự cải tạo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo thành người hữu ích là phù hợp với quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo và gia đình bị hại đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường về trách nhiệm dân sự. Người đại diện hợp pháp của anh S và K’ K1 không có yêu cầu gì thêm. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với K’ K1 là người ngồi sau xe máy do bị cáo điều khiển, sau khi tai nạn xảy ra, K1 bị choáng nên cũng được người dân đưa đến Trung tâm y tế huyện Đ điều trị, tuy nhiên K1 chỉ bị trầy xước da, không có thương tích gì nên không xem xét là phù hợp.

[5] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 xe mô tô không biển kiểm soát, có số máy VUMDCYG150FMG-4P100469, không có số khung, không có giấy đăng ký xe. Quá trình điều tra bị cáo khai nhận đây là xe bị cáo tự lắp ráp nên không có giấy tờ gì. Xét thấy đây là phương tiện cấm lưu thông nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với xe mô tô biển kiểm soát 59G2 - A.59 do anh Đào Thế S điều khiển. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Ngọc V, sinh năm 1982, cư trú tại P, phường P1, thành phố T, Thành phố HCM nên Cơ quan điều tra Công an huyện Đ đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh V và anh V cũng không có yêu cầu gì. Do đó Hội đồng xét xét không xem xét.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo K’ L phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 91; Điều 65 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo 30 (Ba mươi) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (Sáu mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với 01 (một) xe mô tô không biển kiểm soát, có số máy VUMDCYG150FMG-4P100469, không có số khung, không có giấy đăng ký xe.

(Hiện vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/04/2022.)

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thuờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để xin xét xử phúc thẩm. Người đại diện hợp pháp của người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 21/2022/HS-ST

Số hiệu:21/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đạ Huoai - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về