Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 17/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 17/2022/HS-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

 Ngày 30 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện C, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2022/HSST ngày 15 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXXST-HS ngày 07/3/2022 đối với bị cáo:

VÕ VĂN T, sinh năm 1981 tại B; nơi cư trú: Ấp Sở N, xã Thanh B, huyện Hớn Q, tỉnh B; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 9/12; con ông Võ Văn T (đã chết) và bà Ngô Thị M; vợ Thị Ô; con có một người sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28/9/2021 đến nay. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1.Ông Trần Hữu L, sinh năm 2000; Địa chỉ cư trú: Thôn Tân B, xã Bù N, huyện Phú R, tỉnh B. (Xin vắng mặt)

Người đại diên theo pháp luật của bị hại L: Ông Trần Hữu N, sinh năm 1970; Địa chỉ cư trú: Thôn Tân B, xã Bù N, huyện Phú R, tỉnh B. (Xin vắng mặt)

Người đại diện theo uỷ Q của ông N: ông Đinh Văn T, sinh năm 1974; Địa chỉ cư trú: Thôn Tân Hoà, xã Bù Nho, huyện Phú Riềng, tỉnh B. (Xin vắng mặt)

2.Ông Lê Hữu Q, sinh năm 1990; HKTT: Thôn 6, xã Minh D, huyện Thiệu S tỉnh T; Chỗ ở: Thôn Phú T, xã Phú R, huyện Phú R, tỉnh B. (Xin vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1967; Địa chỉ cư trú: Ấ p 3, xã Minh T, huyện Chơn Th, tỉnh B. (Xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Văn Trường có chứng chỉ đào tạo vận hành máy xây dựng, do Công ty cổ phần kiểm định huấn luyện và đào tạo nhân lực ITC, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 19/11/2020. T chỉ được phép điều khiển, vận hành máy trong công trình xây dựng, không được phép điều khiển, vận hành máy tham gia giao thông đường bộ.

Khoảng 16 giờ 15 phút, ngày 08/6/2021, Võ Văn T điều khiển xe máy đào bánh lốp, không biển số nhãn hiệu DOOSAN DX 140 WACE, màu cam, số động cơ: DL06101676E00, số khung: DHKCEWALKB5005087 của ông Nguyễn Văn V lưu thông trên phần đất đỏ phía ngoài mép lề đường bên phải, hướng huyện C đi thành phố Đồng Xoài. Khi xe máy đào do T điều khiển đến Km 979 đường quốc lộ 14 thuộc ấp 4, xã Minh Lập, huyện C, tỉnh B thì chuyển hướng từ phía bên phải qua phía bên trái đường. Do T điều khiển xe chuyển hướng không đảm bảo an toàn nên xe môtô biển số 36B7-xxxxx do anh Trần Hữu L điều khiển, phía sau chở anh Phạm Văn Thành và anh Lê Hữu Q, lưu thông hướng huyện C đi thành phố Đồng Xoài va chạm vào bánh trước bên trái xe máy đào của T xảy ra tai nạn giao thông. Hậu quả, Phạm Văn L và Lê Hữu Q bị thương tích.

Hiện trường nơi xảy ra tai nạn giao thông là đoạn đường thẳng, tại Km 979 đường Quốc lộ 14, thuộc ấp 4, xã Minh Lập, huyện C, tỉnh B. Mặt đường trải nhựa bằng phẳng rộng 11 mét, có vạch sơn không liên nét màu vàng kẻ giữa đường phân chia thành 02 phần cho xe lưu thông hai chiều. Nơi xảy ra tai nạn giao thông thuộcphần đường hướng huyện C đi thành phố Đồng Xoài, có hai làn đường gồm: Làn đường sát vạch sơn giữa đường dành cho xe ôtô và xe môtô rộng 3,35 mét, làn đường sát lề dành cho xe thô sơ rộng 02 mét, có vạch sơn liền nét màu trắng phân chia hai làn đường. sát mép đường bên phải có phần đất đỏ bằng phẳng rộng 05 mét, không có đường giao nhau, không bị che khuất. Cách nơi xảy ra tai nạn giao hơn Thành có biển báo “Đoạn đường thường xuyên xảy ra tai nạn giao thông”.

Sau tai nạn giao thông, xe máy đào bánh lốp không biển số và xe môtô biển số 36B7-xxxxx để lại các dấu vết tại hiện trường như sau:

- Máy đào bánh lốp, sau tai nạn giao thông, Võ Văn T điều khiển chạy lùi vào đỗ trên phàn đất đỏ phía ngoài mép đường bên phải, hướng C đi thành phố Đồng Xoài. Đầu xe quay hướng thành phố Đồng Xoài, lệch về bên trái, đuôi xe quay hướng huyện C, lệch về bên phải. Tâm trục bánh xe trước đỗ trên làn đường dành cho xe thô sơ, cách mép lề đường bên phải 0.75m. Tâm trục bánh sau bên trái cách mép lề đường bên phải 0.85m.

- Xe môtô biển số 36B7-400 04sau tai nạn giao thông bị ngã đổ về bên trái, trên làn đường dành cho xe ô tô và xe môtô thuộc phần đường bên trái hướng huyện C đi thành phố Đồng Xoài. Đầu xe quay hướng thành phố Đồng Xoài, lệch về bên phải; đuôi xe quay hướng huyện C, lệch về bên trái. Tâm trục bánh xe trước cách mép lê đường bên phải 5,90 mét và cách tâm trục bánh trước bên trái máy đào 6,02 mét: tâm trục bánh xe sau cách mép lề đường bên phải 7,10 mét.

- Xe môtô để lại vết cày dài 1,40 mét, rộng 0,002 mét, chiều hướng huyện C đi thành phố Đồng Xoài, từ phải qua trái. Tâm điểm đầu vết cày cách mép lề đường bên phải 5,25 mét; điểm cuối vết cày trùng với trục gác chân phía trước bên trái xe môtô.

- Vùng mảnh vỡ kích thước 0,60 mét x 0,50 mét, tâm vùng mảnh vỡ cách mép lê đường bên phải 5,75 mét và cách đầu vết cày 0,65 mét.

Dấu vết để lại trên phương tiện:

- Dấu vết trên xe máy đào bánh lốp, không biển số, nhãn hiệu DOOSAN DX 140 WACE, màu cam: Bánh xe trước bên trái do tác động của ngoại lực gây trầy xước 10cm x 05cm.

- Dấu vết trên xe môtô biển số 36B7-xxxxx, nhãn hiệu Yamaha: Đầu mũi vè chắn bùn bánh xe trước do tác động của ngoại lực gây vỡ kích thước 20cm x 10cm.

+ Óp nhựa đèn tín hiệu phía trước bên phải do tác động của ngoại lực gây vỡ kích thước 20cm x 05cm. Đèn tín hiệu phía trước bên trái do tác động của ngoại lực gây bung hở. Kính chắn gió bên phải do tác động của ngoại lực gây vỡ kích thước 50cm x 30cm Kết luận giám định pháp y về thương tích số 207 ngày 27/7/2021 Trung tâm Pháp y tỉnh B kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Trần Hữu L hiện tại là 89% Kết luận giám định pháp y về thương tích số 538 ngày 10/12/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Dương kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Lê Hữu Q hiện tại là 04%.

Kết quả kiểm tra nồng độ cồn đối với Võ Văn Trường ngày 08/6/2020 là 0,000mg/L khí thở (không sử dụng chất có nồng độ cồn).

Trần Hữu L có Giấy phép lái xe môtô hạng A1, do Sở Giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 02/5/2019, có giá trị không thời hạn.

Kết quả kiểm tra nồng độ cồn đối với Trần Hữu L ngày 08/6/2021 là 0,000mg/L khí thở (không sử dụng chất có nồng độ cồn).

Về trách nhiệm dân sự:

Sau tai nạn giao thông, chủ xe máy đào là ông Nguyễn Văn V đã tự thỏa thuận bồi thường số tiền 250.000.000đồng chi phí điều trị thương tích bị hại Trần Hữu L; bồi thường số tiền 10.000.000đồng chi phí điều trị thương tích Lê Hữu Q và bồi thường số tiền 5.000.000đồng cho anh Lê Văn Hà để sửa chữa xe mô tô biển số 37B6-xxxxx. Các bị hại không yêu cầu bồi thường gì khác, do vậy trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Bản Cáo trạng số: 14/Ctr - VKS ngày 14/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B truy tố bị cáo Võ Văn T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C giữ Q công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Võ Văn T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Võ Văn T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng khoản 2 Điều 260; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù cho hưởng án treo.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C còn đề nghị xử lý các vấn đề khác của vụ án như nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo.

Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B đã truy tố.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận và kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của bị cáo, đại diện cho các bị hại, những người tham gia tố tụng khác và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm Q, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm Q tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội và tính chất mức độ nguy hiểm phạm tội của bị cáo:Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản khám nhiệm hiện trường, kết luận giám định pháp y, lời khai của người làm chứng cũng như phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 16 giờ 15 phút, ngày 08/6/2021, tại Km 979m đường quốc lộ 14 thuộc ấp 4, xã Minh Lập, huyện C, tỉnh B, Võ Văn T, điều khiển xe máy đào bánh lốp, không biển số nhãn hiệu DOOSAN DX 140 WACE, màu cam, lưu thông trên phần đất đỏ phía ngoài mép lề đường bên phải, hướng huyện C đi thành phố Đồng Xoài, chuyển hướng từ phía bên phải qua phía bên trái đường, chuyển hướng không đảm bảo an toàn để xe môtô biển số 36B7-xxxxx do anh Trần Hữu L điều khiển, phía sau chở anh Phạm Văn Thành và anh Lê Hữu Q, lưu thông hướng huyện C đi thành phố Đồng Xoài va chạm vào bánh trước bên trái xe máy đào của T xảy ra tai nạn giao thông. Hành vi của Võ Văn T đã vi phạm khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ, gây hậu quả bị hại L bị thương tích 89%, Q bị thương tích 04%. Mặc khác, T không có giấy phép lái xe theo quy định. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Do đó, Cáo trạng số 14/CTr-VKS, ngày 14 tháng 02 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B truy tố bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sự an toàn, hoạt động bình thường của các phương tiện giao thông đường bộ, gây hậu quả cho bị hại L thương tích 89%, làm mất khả năng lao động cho bị hại; gây lo lắng trong quần chúng nhân dân khi tham gia giao thông. Bị cáo phạm tội với lỗi vô ý, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; có đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên phải chịu trách nhiệm hình sự.

[3]. Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[3.2]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã khắc phục hậu quả bồi thường cho gia đình bị hại; đại diện gia đình bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo có nhân thân chưa tiền án, tiền sự, bị cáo là lao động chính nuôi dưỡng mẹ già và gia đình bị cáo có công với cách mạng. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5]. Về trách nhiệm dân sự:

Sau tai nạn giao thông, chủ xe máy đào là ông Nguyễn Văn V đã tự thỏa thuận bồi thường số tiền 250.000.000đồng chi phí điều trị thương tích bị hại Trần Hữu L; bồi thường số tiền 10.000.000đồng chi phí điều trị thương tích Lê Hữu Q và bồi thường số tiền 5.000.000đồng cho anh Lê Văn H để sửa chữa xe mô tô biển số 37B6- xxxxx. Các bị hại không yêu cầu bồi thường gì khác, do vậy trách nhiệm dân sự không đặt ra.

[7]. Án phí hình sự, dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Võ Văn T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

[2]. Về điều luật áp dụng:

Căn cứ khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, 54, 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Võ Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 30/3/2022.

Giao bị cáo Võ Văn T cho UBND xã Thanh Bình, huyện Hớn Quản, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của bị cáo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[3]. Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Võ Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[6]. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 17/2022/HS-ST

Số hiệu:17/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về