Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 15/2023/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 15/2023/HSST NGÀY 30/03/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 30 tháng 3 năm 2023, tại Phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2023/QĐXX-ST ngày 01 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo: Nguyễn Tiến L, sinh ngày 02 tháng 10 năm 1960 tại D, Q, Quảng Bình; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã D, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do;

trình độ h c v n: 7/10; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con bà Hoàng Thị T, có vợ Trần Thị C; có 05 người con, lớn nh t sinh năm 1989, nhỏ nh t sinh năm 1997; tiền án, tiền sự: Không.

Về nhân thân: Ngày 29 tháng 6 năm 2009, bị Công an huyện Lệ Thuỷ xử phạt hành chính 200.000 đồng về hành vi vi phạm về trật tự an toàn giao thông đường bộ. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn c m đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

Bị hại:

- Bà Trần Thị H, sinh năm 1969; nghề nghiệp: Làm ruộng; địa chỉ: Thôn T, xã G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.

- Bà Trần Thị C, sinh năm 1965; nghề nghiệp: Làm ruộng; địa chỉ: Thôn T, xã D, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Trần Văn M, sinh năm 1970; nghề nghiệp: Làm ruộng; địa chỉ: Thôn T, xã G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1966; nghề nghiệp: Làm ruộng; địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 20 phút ngày 16 tháng 6 năm 2022, Nguyễn Tiến L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát BK 73N4-3879 trên xe chở theo sau vợ là bà Trần Thị Cchạy theo hướng Bắc - Nam. Khi đến Km 677 900m, Quốc lộ 1 thuộc địa phận thôn T, xã G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, Nguyễn Tiến L chạy không đúng phần đường quy định, không chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn nên đã để xảy ra va chạm với xe đạp do bà Trần Thị H điu khiển cùng chiều phía trước.

Hu quả: Bà Trần Thị H và bà Trần Thị C bị thương được đưa đi c p cứu và điều trị, tỷ lệ tổn thương cơ thể của bà Trần Thị H do tai nạn gây nên là 58%.Tỷ lệ tổn thương cơ thể ca bà Trần Thị C do tai nạn gây nên là 36%. Hai phương tiện bị hư hỏng.

Kết quả khám nghiệm hiện trường theo hướng Nam - Bắc th y:

Đoạn đường xảy ra tai nạn giao thông tại km 677 900m Quốc lộ 1 thuộc địa phận thôn T, xã G, Q, Quảng Bình, được rải nhựa thẳng phẳng, rng 11m. Trên đường có 03 ba vạch kẻ sơn, vạch sơn vàng ngắt quãng ở giữa đường chia đôi thành hai chiều xe chạy. Hai vạch sơn trắng liền nét hai bên cách mép đường 2m phân chia làn đường dành cho xe thô sơ, người đi bộ và làn đường dành cho xe cơ giới.

L y cột mốc Km 677 900m Quốc lộ 1 làm điểm mốc. L y tâm vạch sơn trắng bên phải hướng Bắc Nam làm mép chuẩn. Tiến hành khám nghiệm hiện trường vụ Tai nạn giao thông, phát hiện, ghi nhận những d u vết, phương tiện, đồ vật, tài liệu sau: Vết cà xước 1 ký hiệu 1 trên mặt đường, ngắt quãng, dài 12,65m, có hướng từ Bắc đến Nam, từ Đông sang Tây, điểm đầu 1 cách điểm mốc 11,2m về hướng Đông Nam, cách mép chuẩn 0,55m về hướng Tây. Điểm cuối 1 cách mép chuẩn 1,1m về hướng Tây và trùng với vị trí gác để chân bên trái của xe môtô BK : 73N4-3879. Vết cà xước 2 ký hiệu 2 trên mặt đường có hướng từ Bắc đến Nam, từ Đông sang Tây, điểm đầu 2 cách điểm đầu 1 2m về hướng Đông Nam, cách mép chuẩn 0,3m về hướng Tây, điểm cuối 2 cách mép chuẩn 0,5m về hướng Tây, vết cà xước 2 mờ, dài 0,85m và hướng đến vị trí đầu ngoài tay lái bên phải của xe đạp. Vết cà xước 3 ký hiệu 3 đứt quãng, mờ, dài 2,2m, điểm đầu cách mép chuẩn 0,43m về hướng Tây, cách điểm đầu 2 0,3m về hướng Tây Nam, điểm cuối 3 cách mép chuẩn 0,63m về hướng Tây. Vết cà xước 3 có hướng từ Bắc đến Nam, từ Đông sang Tây, hướng đến vị trí phía sau bên trái giá chở hàng của xe đạp. Xe đạp ký hiệu 4 có màu xanh, sau tai nạn nằm ngã nghiêng qua trái, đầu xe quay hướng Đông Bắc, đuôi xe quay hướng Tây Nam, phần đầu xe quay ngược về hướng Nam. Tâm bánh trước cách mép chuẩn 0,4m về hướng Đông, cách điểm cuối 3 km về hướng Đông Nam, tâm bánh sau cách mép chuẩn 0,33m về hướng Tây. Đám máu ký hiệu 5 trên mặt đường màu đỏ sẫm, còn ướt, không rõ hình trên diện 1,1x0,94 m, có hai vị trí tập trung nhiều máu, tâm đám máu cách mép chuẩn 1,47m về hướng Tây, cách tâm bánh trước xe đạp 1,8m về hướng Tây Nam. Mảnh vỡ nhựa ký hiệu 6 nằm phía sau đuôi xe đạp, kích thước 3,5x3 cm, cách mép chuẩn 0,82m về hướng Tây, cách tâm bánh trước xe đạp 1,28m về hướng Tây Nam. Xe mô tô BK : 73N4-3879 (ký hiệu 7 sau tai nạn nằm ngã nghiêng qua trái, đầu xe quay hướng Đông Bắc, đuôi xe quay hướng Tây Nam. Gác để chân trước bên trái trùng vị trí với điểm cuối 1 . Tâm bánh trước cách mép chuẩn 0,55m về hướng Tây, tâm bánh sau cách mép chuẩn 1,43m.

Kết quả khám nghiệm xe mô tô BK 73N4-3879:

D u vết 1: kích thước 17x4 cm, hướng từ trước ra sau, từ trái sang phải, điểm th p nh t cao cách mặt đ t 70cm. D u vết 2: kích thước 2,5x10 cm, hướng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, điểm th p nh t cao cách mặt đ t 50cm. D u vết 3: kích thước 9x4,5 cm, hướng từ trước ra sau, điểm th p nh t cao cách mặt đ t 43cm. Mặt trước ốp gương chiếu hậu bên trái có d u vết cà trượt hướng từ phải sang trái, kích thước 7x6 cm. Mặt trước ngoài g ng gương chiếu hậu bên trái có d u vết cà trượt hướng từ phải sang trái, kích thước 2x0,8 cm. Mặt ngoài ốp nhựa bên trái đầu xe có d u vết cà trượt hướng từ phải sang trái, từ trước ra sau, kích thước 1,5x1 cm. Mặt trước ngoài tay lái bên trái có d u vết cà trượt hướng từ phải sang trái, từ trước ra sau, kích thước 3x2,5 cm. Mặt ngoài bên trái mỏm chắn bùn trước có d u vết cà trượt hướng từ phải sang trái, từ trên xuống dưới, kích thước 5x3 cm. Mặt ngoài cánh mang bên trái có đám trượt xước hướng từ trước ra sau, kích thước 15x12 cm. Mặt trước ngoài gác để chân trước bên trái có d u vết rách, cà trượt hướng từ trước ra sau, kích thước 3,5x4 cm. Mặt ngoài bên trái tay dắt sau có d u vết cà trượt kích thước 6x0,8 cm.

Khám nghiệm xe đạp màu xanh:

Chân chống bị gãy, cong hướng từ phải sang trái. Mặt sau đế cố định chân chống có d u vết trượt bám dính ch t màu xanh dạng sơn kích thước 4x1,2 cm, hướng từ trái sang phải, điểm th p nh t cao cách mặt đ t 30cm. Mặt ngoài phía sau ốc định vị trục bánh sau có d u vết trượt bám dính ch t màu xanh dạng sơn, điểm th p nh t cao cách mặt đ t 34cm. Phía sau bên trái giá chở hàng sau có d u vết trượt xước bám dính ch t màu xanh dạng sơn, kích thước 0,8x0,2 cm, điểm th p nh t cao cách mặt đ t 73cm. Mặt ngoài tay lái bên trái có d u vết trượt xước hướng từ trước ra sau, kích thước 2x1 cm. Mặt sau ngoài tay lái bên phải có d u vết trượt xước hướng từ trên xuống dưới, kích thước 2x1 cm. Mặt ngoài bàn đạp bên trái có d u vết trượt xước kích thước 5,5x1 cm. Mặt ngoài gác chân sau bên trái có d u vết cà trượt hướng từ sau tới trước, từ dưới lên trên, kích thước 2x1 cm. Mặt ngoài thanh cố định giá chở hàng sau bên trái có d u vết trượt xước kích thước 1,3x0,4 cm, hướng từ trước ra sau. Phần sau chắn bùn bánh sau bị lệch hướng từ trái sang phải, mặt ngoài bên trái có d u vết trượt xước kích thước (22x2)cm, đèn hậu vỡ.

Tại Bản Kết luận giám định số 705/KL-KTH ngày 11/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: D u vết cà trượt kim loại ở mặt trước bên phải trục bánh trước và d u vết trượt xước ở mặt ngoài cánh mang bên phải xe mô tô BK : 73N4-3879 phù hợp với d u vết gãy, d u vết trượt bám dính ch t màu xanh dạng sơn và chân chống của xe đạp.

Đặc điểm các d u vết trên phù hợp với tình huống mặt trước bên phải trục bánh trước, mặt ngoài cánh mang bên phải xe mô tô BK : 73N4-3879 va chạm với chân chống xe đạp theo hướng từ sau tới trước so với trục chuyển động của xe đp. Các d u vết còn lại phía bên trái xe mô tô BKS: 73N4-3879 và xe đạp có đặc điểm phù hợp với tình huống các đối tượng ngã nghiêng sang trái va chạm với mặt đường.

Đi với thương tích của bà Trần Thị H: au khi tai nạn bà H bị thương nặng được đưa vào Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam-Cu Ba c p cứu và điều trị. Ngày 11/10/2022, Trung tâm giám định khoa-Pháp y tỉnh Quảng Bình đã giám định và kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của bà Trần Thị H do thương tích gây nên hiện tại là: 58% (năm mươi tám phần trăm .

Đi với thương tích của bà Trần Thị C: au khi tai nạn bà C bị thương nặng được đưa vào Bệnh viện đa khoa huyện Quảng Ninh c p cứu và điều trị. Ngày 15/9/2022, Trung tâm giám định khoa- Pháp y tỉnh Quảng Bình đã giám định và kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của bà Trần Thị C do thương tích gây nên hiện tại là: 36% (ba mươi sáu phần trăm .

Về vật chứng vụ án: Ngày 17/6/2022, Cơ quan C ĐT Công an huyện Quảng Ninh tạm giữ các đồ vật tài liệu sau: 01 một xe mô tô BK 73N4-3879;

01 một Gi y đăng ký xe mô tô, xe máy số 0034222, tên chủ xe Nguyễn Thị Huệ, biển số đăng ký: 73N4-3879; 01 một Gi y phép lái xe mô tô hạng 1 số 440067000977, mang tên Nguyễn Tiến Long; 01 một xe đạp màu xanh, nhãn hiu sama.

Ngày 14/10/2022, Cơ quan C ĐT Công an huyện Quảng Ninh đã ra Quyết định xử lý vật chứng: Trả lại 01 một xe đạp màu xanh, nhãn hiệu sama cho chủ sở hữu là bà Trần Thị H. Ngày 10/01/2023, Cơ quan C ĐT Công an huyện Quảng Ninh đã ra Quyết định xử lý vật chứng: Trả lại cho Nguyễn Tiến L 01 một xe mô tô BKS 73N4-3879 và 01 một Gi y đăng ký xe mô tô, xe máy số 0034222, mang tên Nguyễn Thị H, biển số đăng ký: 73N4-3879.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Tiến L và bị hại đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong; bị hại đã viết đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tại Bản cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 01 tháng 2 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình truy tố bị cáo Nguyn Tiến L về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, theo điểm c khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra, Nguyn Tiến L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, đúng như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh đã truy tố.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh giữ quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật phát biểu quan điểm, luận tội chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo Nguyn Tiến L. Cáo trạng truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyn Tiến L mc án từ 12 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng. Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại gi y phép lái xe cho bị cáo.

Bị cáo Nguyn Tiến L nh t trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời luận tội của Kiểm sát viên, hối hận về hành vi phạm tội của mình, tỏ thái độ ăn năn hối cải, ch p hành nghiêm chỉnh pháp luật; xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương để có điều kiện làm ăn, giúp đỡ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quảng Ninh, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo thống nh t, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; phù hợp về thời gian, địa điểm và quá trình diễn biến của vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Vào khong 19 giờ 20 phút ngày 16 tháng 6 năm 2022, bị cáo điều khiển xe môtô BKS: 73N4- 3879 chở sau xe là bà Trần Thị C vợ bị cáo chạy theo hướng Bắc - Nam; khi đến Km 677 900m, Quốc lộ 1 thuộc địa phận thôn T, xã G, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, do bị cáo chạy không đúng phần đường quy định, không chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn nên đã để xảy ra va chạm với xe đạp do bà Trần Thị H điu khiển cùng chiều phía trước. Hậu quả: Bà Trần Thị H và bà Trần Thị C bị thương được đưa đi c p cứu và điều trị, tỷ lệ tổn thương cơ thể của bà Trần Thị H do tai nạn gây ra là 58%; tỷ lệ tổn thương cơ thể ca bà Trần Thị C do tai nạn gây ra là 36%. Hành vi của bị cáo đã phạm khon 1 Điều 9, khoản 1 Điều 12 ca Luật Giao thông đường bộ.

Hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ của bị cáo thực hiện thuộc lỗi vô ý, bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; hành vi của bị cáo đủ yếu tố c u thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự. Bị cáo do chủ quan, thiếu tuân thủ luật giao thông đường bộ, coi thường sức khỏe của người khác khi tham gia giao thông. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội cho người tham gia giao thông. Do đó, cần phải được xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự.

Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo về tội danh, khung hình phạt như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường đầy đủ thiệt hại cho bị hại; bị hại có đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở phân tích đánh giá đến tính ch t mức độ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét th y bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo nên cần áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo ở mức án 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là hoàn toàn phù hợp.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[5] Về vật chứng vụ án: Ngày 14/10/2022 và ngày 10/01/2023, Cơ quan C ĐT Công an huyện Quảng Ninh đã ra Quyết định xử lý vật chứng: Trả lại 01 một xe đạp nhãn hiệu sama cho chủ sở hữu là bà Trần Thị H; trả lại cho bị cáo 01 một xe mô tô BK : 73N4-3879 và 01 một Gi y đăng ký xe mô tô, xe máy số 0034222 mang tên Nguyễn Thị H là đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét; đối với Gi y phép lái xe số 440067000977 mang tên Nguyễn Tiến L, Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ cần trả lại cho bị cáo là hoàn toàn phù hợp với điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Tiến L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 260; khoản 1 Điều 268, khoản 1 Điều 269;

khon 1 Điều 298; khoản 1, 4 Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến L phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến L 15 (mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 30/3/2023). Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã D, huyện Q, tỉnh Quảng Bình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã D, huyện Q, tỉnh Quảng Bình giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 2 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải ch p hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Xử trả lại cho bị cáo Nguyễn Tiến L 01 một Gi y phép lái xe số 440067000977 mang tên Nguyễn Tiến Long do ở giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình c p ngày 29 tháng 5 năm 2015.

3. Án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Tiến L phải nộp 200.000 đồng Hai trăm nghìn đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 15/2023/HSST

Số hiệu:15/2023/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Ninh - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về