Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 15/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 19 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 142/2020/TLST-HS, ngày 18/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 155/2020/QĐXXST-HS, ngày 10/12/2020 và Quyết định Hoãn phiên tòa số 37/2020/HSST- QĐ ngày 25/12/2020 đối với bị cáo:

Phạm Trường G (tên gọi khác: Lính), sinh năm 1986; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú chỗ ở hiện nay: thôn V, xã H, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không ; Trình độ học vấn: 04/12; Nghề nghiệp: làm thuê; tiền án, tiền sự: không; Cha: Phạm Hồng C, sinh năm 1960; mẹ: Lý Thị Ngh, sinh năm 1962; Anh, chị, em ruột: có 03 người, lớn nhất sinh năm 1979, nhỏ nhất sinh năm 1996; Vợ: Lê Thị S, sinh năm 1988, con: 02 người, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2017.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại thôn V, xã H, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

1/ Đại diện hợp pháp của người bị hại: Bà Trần Thị L, sinh năm 1994 Địa chỉ: thôn V, xã H, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, có mặt.

2/ Người làm chứng:

2.1/ Bà Lê Thị S, sinh năm 1988; địa chỉ: thôn V, xã H, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận; Có mặt.

2.2/ Ông Võ Văn Nh, sinh năm 1988; địa chỉ: thôn Nh, xã N, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận; Có mặt.

2.3/ Ông Võ M, sinh năm 1977; địa chỉ: thôn Nh, xã N, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận; Có mặt.

2.4/ Ông Trình Ph, sinh năm 1967; địa chỉ: thôn Vĩnh Hải, xã H, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 29.8.2020 Phạm Trường G điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha loại Exciter biển số 86B1-50225 chở Vương Huỳnh Bảo Q ngồi phía sau chạy hướng Phan Thiết – Phan Rang. G điều khiển xe mô tô đến km 1598 + 440m thuộc thôn Vĩnh Phúc, xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong là đoạn đường trên Cầu vượt, G nhìn thấy 02 xe ô tô tải không rõ biển số đang chạy song song nhau trên cầu, G không giảm tốc độ xe mô tô mà liền điều khiển xe mô tô lách tránh sang trái chạy vào làn đường thứ nhất sát thành cầu để vượt xe ô tô tải chạy phía trước. G không làm chủ được tay lái nên xe mô tô của G liền va quẹt vào thành Cầu vượt làm G và Q té ngã uống đường. Q chết tại chổ, G bị thương.

Qua khám nghiệm hiện trường xác định: Vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày 29.8.2020 km 1598 + 440m thuộc thôn Vĩnh Phúc, xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong. Hiện trường nơi xảy ra trong đoạn đường thẳng, dốc, cầu vượt, không có biển báo hiệu, đèn chiếu sáng công cộng không được chiếu sáng, có dân cư sinh sống. Mặt đường được rải nhựa bằng phẳng, trên mặt chính có kẻ vạch phân đường được mở rộng bằng sơn trắng, có thành cầu ở giữa và dải phân cách giữa phân chia mặt đường chính thành 02 chiều đường xe chạy riêng biệt. Thành cầu dài 30,15 m; Theo hướng: Phan Thiết - Phan Rang: từ mép đường chính phải đến vạch phân tuyến thứ nhất (vạch liền bằng sơn trắng) có chiều rộng là: 2,00m, từ vạch phân tuyến thứ nhất đến vạch phân tuyến thứ hai (vạch đứt quãng bằng sơn trắng) có chiều rộng là: 3,50m; từ vạch phân tuyến thứ hai đến mép bên phải chân dải phân cách có chiều rộng là: 3,50m.

Ghi nhận việc đánh số thứ tự vị trí nạn nhân, phương tiện, tang vật, dấu vết như sau: (1) tử thi; (2) xe mô tô 86B1- 50225; (3) vết ma sát; (4) vết bể vỡ; (5) vết màu nâu sẫm; (6) dấu vết máu, (7) vết nhớt, (8), (9) lỗ trên mặt đường.

Theo hướng: Phan Thiết - Phan Rang: chọn mép đường chính phải làm mép đường chuẩn, chọn cuối thành cầu bên trái hướng Phan Rang làm điểm cố định hiện trường.

Tử thi (1) nằm trên mặt đường chính, nằm ngửa, đầu tử thi quay về hướng biển bên phải. Đỉnh đầu tử thi cách mép đường chính phải là 7,65 m và gót chân trái của tử thi cách mép đường chính phải là 9,20m.

Xe mô tô 86B1- 50225 (2) nằm trên mặt đường chính, bên ngoài cầu vượt, về hướng Phan Rang ngã sang trái, đầu xe quay về hướng Phan Rang. Trục bánh trước của xe mô tô 86B1-50225 cách mép đường chính phải là 8,25m và trục bánh sau của xe mô tô 86B1-50225 cách mép đường chính phải là 8,75m. Đo thẳng từ trục bánh sau của xe mô tô 86B1-50225 đến đỉnh đầu của tử thi là 10,00m.

Vết ma sát (3) nằm trên thành cầu bên trái và dải phân cách giữa. Vết ma sát (3) nằm trên thành cầu bên trái và dải phân cách giữa không đều, không liên tục có chiều dài 16,10m; đầu vết ma sát (3) nằm trên thành cầu bên trái và cách mặt đường chính 0,45m. Cuối vết ma sát (3) nằm trên dải phân cách giữa về hướng Phan Rang. Đo thẳng từ đầu vết ma sát (3) đến đỉnh đầu tử thi là 6,75m và đến gót chân trái của tử thi là 6,73m. Đo thẳng từ cuối vết ma sát (3) đến trục bánh trước của xe mô tô 86B1-50225 là 2,00m và đến trục bánh sau của xe mô tô 86B1-50225 là 1,17m.

Cuối thành cầu bên trái về hướng Phan Rang có dấu vết bể vỡ bê tông (4), có các mảnh vở kim loại nằm rải rác, kích thước (12x10)cm. Trên kết cấu bê tông của dải phân cách giữa nối thành cầu bên trái có dính chất màu nâu sẫm (5), kích thước (19x4)cm; đo thẳng từ tâm chất màu nâu sẫm đến cuối vết ma sát 3 là 1,50m.

Dấu vết máu (6) nằm trên mặt đường chính, có kích thước (40x20)cm, tâm vết máu (6) cách mép đường chính phải là 8,00m. Đo thẳng từ tâm vết máu (6) đến đỉnh đầu tử thi là 0,45m và đến gót chân trái của tử thi là 1,30m.

Vết nhớt loang (7) nằm trên mặt đường chính, nằm dưới vị trí xe mô tô 86B1-50225 có kích thước (3,90x1,25)m. Tâm vết nhớt cách mép đường chính phải là 8,55m. Đo thẳng từ tâm vết nhớt đến trục bánh sau xe mô tô 86B1-50225 là 0,20m.

Vị trí của lỗ thủng thứ nhất (8) có kích thước (5x3)cm cách mép đường chính phải là 8,75m trùng với vị trí của trục bánh sau bên trái của xe mô tô 86B1-50225 và vị trí lỗ thủng thứ hai (9) có kích thước (7x3)cm cách mép đường chính phải là 8,65m trùng với vị trí gác chân trước bên trái của xe mô tô 86B1-50225. Lỗ thứ nhất (8) cách lỗ thứ hai (9) là 0,60m. Đo thẳng từ cuối vết ma sát (3) đến lỗ thứ nhất (8) là 1,17m và đến lỗ thứ hai (9) là 1,35m. Thành cầu bên trái (theo hướng Phan Thiết-Phan Rang) được xây dựng trên mặt đường chính. Đo thẳng từ cuôí thành cầu bên trái đến đỉnh đầu tử thi là 5,80m và đến gót chân trái của tử thi là 5,15m. Đo thẳng từ cuối thành cầu bên trái đến trục bánh trước của xe mô tô 86B1- 50225 là 5,60m và đến trục bánh sau của xe mô tô 86B1-50225 là 4,40m .

- Khám phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông, xác định:

* Khám phương tiện xe mô tô biển số 86B1-50225:

- Đầu tay lái bên phải có vết bào mòn nhựa kích thước (2x0,5) cm.

- Cần gương chiếu hậu bên trái cong gập đưa từ trước ra sau lệch khỏi vị trí ban đầu.

- Tay côn bên trái gãy.

- Chụp đầu tay lái bên trái gãy rơi khỏi vị trí, có dấu vết bào mòn cao su , kim loại kích thước (2,5x2,5)cm dính chất bột màu trắng kích thước (1,5x1)cm.

- Yếm chắn gió bên trái gãy bể vỡ có dấu vết bào mòn nhựa hướng từ trước ra sau, kích thước (30x63)cm.

- Chắn bùn trước bể vỡ lệch khỏi vị trí, mặt bên phải chắn bùn có dấu vết bào mòn nhựa hướng từ trước ra sau kích thước (30x10)cm.

- Ốp giảm xóc trước bên trái bể vỡ kim loại kích thước (6x4,5)cm.

- Mặt ngoài ốp giảm xóc trước bên trái có dấu vết bào mòn kim loại kích thước (23,5x1)cm, trục giảm xóc trước bên trái cong đưa từ trước ra sau, từ trái sang phải.

- Thanh kim loại gắn trục phía trước bên trái cong đưa từ trái sang phải.

- Mặt bên trái vành bánh xe trước có dấu vết hằn kim loại. \ - Mặt trước lốc máy bên trái có dấu vết bể vỡ kim loại kích thước (6x4,5)cm.

- Cần số cong, mặt dưới cần số có dấu vết bào mòn kim loại kích thước (3x0,1)cm.

- Gác chân trước bên trái cong đưa từ trước về sau.

- Đầu thanh kim loại chống đổ bên trái có dấu vết bào mòn kim loại kích thước (1x0,5)cm.

- Mặt ngoài ốp hông xe bên trái có dấu vết bào mòn, trầy xước nhựa kích thước (27x10)cm.

- Mặt ngoài ốc của thanh kim loại trục sau bên trái có dấu vết bào mòn kim loại kích thước (1x0,7)cm.

- Mặt ngoài gắp bên trái có dấu vết móp thụn bào mòn kim loại kích thước (6x1,5)cm.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 967/PY-PC54 ngày 08.9.2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, kết luận:

- Nguyên nhân chết của Vương Huỳnh Bảo Q: Chấn thương sọ não vỡ xương hộp sọ phức tạp, dập vỡ nhu mô não, xuất huyết nội sọ - Nồng độ cồn (Ethanol) trong máu của Vương Huỳnh Bảo Q là: 176,86 mg/100mL.

Về tang, vật chứng của vụ án: Ngày 09.11.2020 Cơ quan CSĐT - Công an huyện Tuy Phong đã trả xe mô tô biển số 86B1- 50225 cho Phạm Trường G là chủ sở hữu theo quy định của Pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Bị can Phạm Trường G đã bồi thường cho gia đình người bị hại 20.000.000 đồng. Đại diện gia đình người bị hại là Trần Thị L không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố theo Cáo trạng số: 146/CT-VKS-TP, ngày 18/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phạm Trường G phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Áp dụng: điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Trường G từ 24 đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thử thách từ 48 đến 60 tháng Về trách nhiệm dân sự: Đại diện cho gia đình bị hại bà Trần Thị L không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

Bị cáo không trình bày lời bào chữa và đồng ý quan điểm truy tố của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho, cho bị cáo được hưởng án treo vì bị cáo đã nhận thức được lỗi lầm của bị cáo, để bị cáo có điều kiện chăm sóc thêm về vật chất cho gia đình người bị hại.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Trường G đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng số 146/CT-VKS-TP, ngày 18/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong đã truy tố. Bị cáo khẳng định những lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra là hoàn toàn tự nguyện, đúng sự thật, bị cáo không bị bức cung và Cáo trạng truy tố là đúng, không oan cho bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người đại diện hợp pháp cho bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở khẳng định: vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 29/8/2020 tại km 1598 + 440m thuộc thôn Vĩnh Phúc, xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong, Phạm Trường G dù không có giấy phép lái xe nhưng vẫn điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha loại Exciter biển số 86B1-50225 chở Vương Huỳnh Bảo Q đi trên Cầu vượt không giảm tốc độ, vượt xe không đúng quy định đã va chạm vào thành cầu Vượt làm G và Q té ngã uống đường. Q chết tại chỗ, còn G bị thương. Hành vi của bị cáo đã vi phạm vào khoản 9 Điều 8, khoản 2 Điều 14 Luật Giao thông đường bộ và Khoản 4 Điều 5 Thông tư số 31/2019/TT-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải, do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong truy tố Phạm Trường G phạm tội“Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo Phạm Trường G biết rất rõ điều khiển phương tiện giao thông trên 50cm3 mà không có giấy phép lái xe là vi phạm pháp luật nhưng vẫn vi phạm; bị cáo điều khiển xe đi trên Cầu vượt nhưng không giảm tốc độ, vượt xe không đúng quy định nên đã va chạm vào thành cầu mà hậu quả chết người xảy ra mà lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo .

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn khi tham gia giao thông đường bộ, đồng thời xâm phạm đến tính mạng của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương nên Hội đồng xét xử cần thiết xử lý bị cáo với mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo gây ra.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Phạm Trường G không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Phạm Trường G đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải, đã cùng gia đình thăm hỏi, bồi thường toàn bộ thiệt hại theo yêu cầu của đại diện người bị hại, người đại diện hợp pháp cho bị hại xin được miễn trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Phạm Trường G, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đủ điều kiện áp dụng khoản 1 điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 xử bị cáo một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

Xét thấy bị cáo có 02 tình tiết giải nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51, là dân lao động có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo để trở thành người tốt, có ích cho xã hội; việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, cũng không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn cho xã hội. Hơn nữa, cả bị cáo và đại diện hợp pháp cho người bị hại tha thiết xin cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện chăm sóc vất chất cho gia đình người bị hại, Hội đồng xét xử xét thấy đủ điều khiện cho bị cáo hưởng án treo, không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, để bị cáo tự cải tạo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú cũng đủ để bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội [5]Với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ nên chấp nhận.

[6] Về tang vật chứng vụ án: Ngày 09.11.2020 Cơ quan CSĐT - Công an huyện Tuy Phong đã trả xe mô tô biển số 86B1- 50225 cho Phạm Trường G là chủ sở hữu theo quy định của Pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện cho gia đình bị hại bà Trần Thị L không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Trường G 24( hai mươi bốn)tháng tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án hôm nay về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Giao bị cáo Phạm Trường G cho UBND xã H, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Phạm Trường G có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo Trong trường hợp Phạm Trường G thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự 2019 Trong thời gian thử thách, Phạm Trường G cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc G phải chấp hành hình phạt tù của bản án này

[2] Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Phạm Trường G phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm có mặt bị cáo, đại diện hợp pháp cho người bị hại. Báo cho họ biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/01/2021) Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 15/2021/HS-ST

Số hiệu:15/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về