Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 141/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐB, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 141/2023/HS-ST NGÀY 22/06/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

 Ngày 22/6/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 160/2018/TLST-HS ngày 30/5/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 149/2023/QĐXXST-HS ngày 08/6/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Quàng Văn T, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1997, tại Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản P Đ, xã T X, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Quàng Văn P (đã chết) và bà: Lò Thị Th, sinh năm 1977; có vợ: Lường Thị H, sinh năm 1997 và 01 con, sinh năm 2021; Tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo chưa bị Tòa án xét xử, không bị xử lý hành chính; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 20/02/2023 đến ngày 28/02/2023 thì được bảo lĩnh tại ngoại cho đến nay "có mặt".

Bị hại: Bà Vũ Thị G, sinh năm 1977 (Đã chết). Nơi cư trú: Thôn T T, xã Y T, huyện V Y, tỉnh Yên Bái.

Người đại diện của bị hại: Bà Vũ Thu H, sinh năm 1998 ."vắng mặt".;

Nơi cư trú: Thôn Đ X, xã B Đ, huyện T Y, tỉnh Yên Bái.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Cháu Quàng Thị H Y, sinh ngày 06/02/2007 “có mặt”.

Nơi cư trú: Bản P Đ, xã T X, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

Người đại diện hợp pháp của cháu Quàng Thị H Y: Bà Lò Thị Th, sinh năm 1977 “có mặt”.

Nơi cư trú: Bản P Đ, xã T X, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

Người làm chứng:

- Ông Phùng Minh P, sinh năm 1982 “có mặt”.

Nơi cư trú: Xóm 19, thôn 4, xã T Đ, huyện M L, thành phố Hà Nội.

- Ông Lưu Văn Y, sinh năm 1976 “vắng mặt”;

Nơi cư trú: Thôn 2, xã T Đ, huyện M L, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 15/01/2023, bị cáo Quàng Văn T sau khi uống bia tại quán bia Phố Bản ở tổ 11, phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ đã điều khiển xe máy điện BKS 27MĐ1-xxxxx có bật đèn xe ở chế độ chiếu gần để về nhà. Khi đi qua ngã ba thuộc bản Pú Tửu 2, xã T X, huyện Đ B là đoạn đường thẳng hai chiều dải nhựa, rộng 13,55m, không có vạch kẻ phan chia hai làn đường, vỉa hè bên phải theo chiều đi của bị cáo rộng 8,3m, vỉa hè bên trái rộng 7,5m, không có điện cao áp chiếu sáng, bị cáo điều khiển xe đi bên phải đường theo chiều đi của mình. Khi cách khoảng 03m, bị cáo phát hiện chị Vũ Thị G và anh Phùng Minh P đang đi bộ trên lòng đường bên phải cùng chiều phía trước, cách mép đường bên phải khoảng 02m. Do không chú ý quan sát nên phần đầu xe máy điện do bị cáo điều khiển đã đâm vào phía sau bên phải người của chị G làm chị G văng về phía trước ngã xuống đường bất tỉnh, bị cáo và xe máy điện đổ rê về phía trước ở lề đường bên phải. Bị cáo bị thương nhẹ, chị G được đưa đi bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên cấp cứu, cùng ngày thì tử vong. Cơ quan Công an đã đo nồng độ cồn trong khí thở của bị cáo sau khi xảy ra tai nạn là 0,096m/l khí thở.

Sau khi tai nạn xảy ra, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đ B đã cùng các cơ quan chức năng tiến hành khám nghiệm hiện trường. Qua công tác khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn có đủ cơ sở kết luận: Nguyên nhân xảy ra vụ tai nạn giao thông là do bị cáo khi điều khiển xe máy điện tham gia giao thông khi đã sử dụng bia, không chú ý quan sát, không giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn khi bị hạn chế tầm nhìn. Nên đã vi phạm Khoản 8, Khoản 23 Điều 8 Luật giao thông đường bộ, Khoản 2 Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ giao thông vận tải.

Tại phiên tòa, bị cáo Quàng Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 09/KLGĐTT-TTPY ngày 01/02/2023 của Trung tâm Pháp y – Sở y tế tỉnh Điện Biên kết luận: Nguyên nhân chết của Vũ Thị G là do đa chấn thương sọ não.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 11/ KLGĐTT-TTPY ngày 17/01/2023 của Trung tâm Pháp y – Sở y tế tỉnh Điện Biên: Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do tai nạn giao thông gây nên cho Quàng Văn T tại thời điểm giám định là 4%.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 98/CT-VKSHĐB ngày 29/5/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B đã truy tố bị cáo Quàng Văn T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo Điểm b Khoản 2 Điều 260/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ B vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 260/BLHS; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51/BLHS; Khoản 1, Khoản 2, Khoản 5 Điều 65/BLHS; Điều 92 Luật thi hành án Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo 03 năm tù, cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách 60 tháng, kể từ ngày tuyên án đối với bị cáo. Giao bị cáo cho UBND xã T X, huyện Đ B quản lý và giáo dục. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Quàng Văn T theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 125/BLTTHS.

Áp dụng các Điều 584, 585, 591/Bộ luật dân sựchấp nhận việc thỏa thuận giữa gia đình bị cáo và gia đình người bị hại về việc bồi thường cho bị hại.

Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Người đại diện cho bị hại đã có đơn và ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không yêu cầu HĐXX giải quyết về phần bồi thường thiệt hại, vì hai bên gia đình đã tự thỏa thuận xong về mức bồi thường.

Bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì tranh luận, hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và Luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Tôi biết hành vi của tôi là vi phạm pháp luật, tôi xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo: Khoảng 22 giờ ngày 15/01/2023, bị cáo Quàng Văn T sau khi uống bia tại quán bia Phố Bản ở tổ 11, phường Nam Thanh, thành phố Điện Biên Phủ đã điều khiển xe máy điện BKS 27MĐ1-xxxxx có bật đèn xe ở chế độ chiếu gần để về nhà. Do không chú ý quan sát nên phần đầu xe máy điện do bị cáo điều khiển đã đâm vào phía sau bên phải người của chị G làm chị G văng về phía trước ngã xuống đường bất tỉnh, bị cáo và xe máy điện đổ rê về phía trước ở lề đường bên phải. Bị cáo bị thương nhẹ, chị G được đưa đi bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên cấp cứu, cùng ngày thì tử vong. Cơ quan Công an đã đo nồng độ cồn trong khí thở của bị cáo sau khi xảy ra tai nạn là 0,096m/l khí thở.

Hành vi của bị cáo phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám nghiệm phương tiện, Biên bản khám nghiệm tử thi, kết luận giám định pháp y về tử thi, kết luận giám định, kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố. Với hành vi trên đây của bị cáo thì bị cáo đã phạm vào tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo Điểm b Khoản 2 Điều 260/BLHS.

Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm đến trật tự an toàn trong hoạt động giao thông đường bộ, đồng thời xâm phạm đến tính mạng, tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi của bị cáo cần phải bị xử lý theo quy định của pháp luật, đó không những là bài học cho chính bản thân bị cáo mà còn có tác dụng giáo dục ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ cho những người khác khi tham gia giao thông.

Tính chất mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng. Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B đã truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo Điểm b Khoản 2 Điều 260/BLHS là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo HĐXX thấy rằng: Bị cáo được gia đình nuôi ăn học lớp 11/12 thì ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình, ngày 15/01/2023 phạm tội trong vụ án này. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi tai nạn xảy ra bị cáo đã cùng gia đình bị cáo thỏa thuận bồi thường xong về trách nhiệm dân sự cho gia đình bị hại để khắc phục khó khăn; Gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; Người bị hại cũng có lỗi; Ông nội là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì, được Chủ tịch nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào tặng Huân chương chiến công hạng Nhất, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm b, Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51/BLHS.

Sau khi xem xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì HĐXX xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, tuổi đời còn trẻ, phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội đã thực sự biết ăn năn hối cải. Để thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội và tạo điều kiện cho bị cáo làm lại cuộc đời, không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương và gia đình giám sát giáo dục cũng đủ để bị cáo trở thành người tốt.

Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, cần chấp nhận.

[4]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Đ B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 260/Bộ luật hình sự 2015 thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, nhưng xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp gì. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Sau khi sự việc xảy ra bị cáo và gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại. Đồng thời gia đình bị cáo và gia đình bị hại đã thỏa thuận với nhau về mức bồi thường cho gia đình bị hại. Hội đồng xét xử chấp nhận việc gia đình người bị hại không yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường.

[7]. Đối với chiếc xe máy điện do bị cáo điều khiển gây tai nạn cùng với và giấy tờ liên quan đã được công an huyện Đ B trả lại cho chủ sở hữu vào ngày 15/02/2023 là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8]. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b Khoản 2 Điều 260/BLHS; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51/BLHS; Khoản 1, Khoản 2, Khoản 5 Điều 65/BLHS; Nghị quyết số: 02/2018/NQ - HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án Hình sự:

1. Tuyên bố: Bị cáo cáo Quàng Văn T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Hình phạt: - Xử phạt bị cáo Quàng Văn T 03 năm tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 60 tháng, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (22/6/2023). Giao bị cáo cho UBND xã T X, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên để giám sát và giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hình án hình sự.

- Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Quàng Văn T theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 125/BLTTHS.

3. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584; 585; 591/BLDS:

- Chấp nhận việc thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại theo biên bản thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Chấp nhận biên bản về việc trả lại tài sản ngày 15/02/2023 của CQCSĐT Công an huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

4. Án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, Điều 333/BLTTHS; Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người đại diện bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án chính hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện có mặt có quyền kháng cáo về phần trực tiếp có liên quan trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 141/2023/HS-ST

Số hiệu:141/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về