Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 107/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 107/2022/HS-ST NGÀY 19/09/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 19 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 96/2022/TLST- HS ngày 04 tháng 8 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2022/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo.

Họ và tên: Phạm Đình T - Sinh ngày 15 tháng 02 năm 1965 tại thành phố Hải Phòng.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản Y, xã K, huyện V, tỉnh Lào Cai. Nơi ở hiện tại: Thôn H, xã V, thành phố L, tỉnh Lào Cai.

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Đình K và bà Phạm Thị D. Bị cáo có vợ là Tạ Thị H (Đã ly hôn) và 02 con. Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Bị cáo đang được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú “Có mặt”.

- Người bị hại: Ông Phạm Xuân M, sinh năm 1939 Nơi cư trú: Tổ 15, phường N, thành phố L, tỉnh Lào Cai (Đã chết) - Những người đại diện người bị hại: Bà Mai Thị N, anh Phạm Xuân T, chị Phạm Thị D, anh Phạm Xuân D, chị Phạm Thị N, anh Phạm Ngọc Đ, chị Phạm Thị Ng - Cùng nơi cư trú: Tổ 21, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai; Ông Phạm Xuân K- Nơi cư trú: Tổ 15, phường N, thành phố L, tỉnh Lào Cai;

Ngưi đại diện theo ủy quyền của những người đại diện bị hại: Ông Phạm Xuân K Nơi cư trú: Tổ 15, phường N, thành phố L, tỉnh Lào Cai “Có mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 23/02/2022, Phạm Đình T (Sinh năm 1965; Trú tại thôn Hồ, xã V, thành phố Lào Cai) một mình điều khiển xe ô tô nhãn hiệu KIA THACO BKS 15C - 306.15 từ nhà đi lên khu vực cửa khẩu Quốc tế Lào Cai để chở hàng thuê. Sau khi giao hàng xong tại đường Xuân Diệu, phường Kim Tân, thành phố Lào Cai, khoảng 14 giờ 20 phút cùng ngày, Phạm Đình T điều khiển xe ô tô đi ra đường Hàm Nghi để đi về nhà. Khi đi đến khu vực cách vòng xuyến ngã sáu giao nhau giữa các đường Hàm Nghi - Trần Hưng Đạo - Yết Kiêu - Nguyễn Huệ - Lý Công Uẩn - Trần Nhật Duật, tổ 09, phường Kim Tân, thành phố Lào Cai khoảng 13 mét - 15 mét, Phạm Đình T nhìn thấy áo khoác của mình đang để ở phanh tay của xe ô tô, Phạm Đình T tiếp tục nhìn xuống phía vị trí đặt áo, sau đó dùng tay phải cầm áo khoác đặt sang bên phía ghế phụ của ô tô. Khi vừa đặt chiếc áo xong, Phạm Đình T nhìn lên thì thấy phía trước phía bên trái Phạm Đình T có 01 xe máy điện BKS 24MĐ1 - 011.29 do ông Phạm Xuân M (Sinh năm 1939; Trú tại tổ 15, phường N, thành phố L) đang điều khiển đi từ khu vực vòng xuyến hướng ra đại lộ Trần Hưng Đạo. Thấy vậy, Phạm Đình T dùng chân phải đạp phanh xe ô tô lại, nhưng đã đâm vào xe máy điện BKS 24MĐ1 - 011.29 do ông Phạm Xuân M điều khiển. Sau khi xảy ra va chạm, xe ô tô do Phạm Đình T điều khiển tiếp tục đi được khoảng 04 - 05 mét nữa mới dừng lại, Phạm Đình T xuống xe ô tô để kiểm tra thì thấy bên dưới gầm xe ô tô có 01 xe máy điện BKS 24MĐ1 - 011.29 đổ nghiêng sang trái, đầu xe quay về phía đại lộ Trần Hưng Đạo, đuôi xe quay về phía vòng xuyến, cách xe máy điện khoảng 02 mét, ông Phạm Xuân M đang bị thương, nằm bất động trên mặt đường. Thấy vậy, Phạm Đình T đã cùng người dân đưa ông Phạm Xuân M đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lào Cai, sau đó Phạm Đình T quay lại hiện trường nơi xảy ra vụ việc để làm việc. Đến khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày, ông Phạm Xuân M tử vong tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lào Cai.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 29/TT ngày 22/3/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai kết luận nguyên nhân chết của ông Phạm Xuân M là do ngừng hô hấp, tuần hoàn do chấn thương sọ não, chấn thương ngực, bụng Tại biên bản giám định tình trạng kỹ thuật ô tô lập hồi 09 giờ 40 phút ngày 23/3/2022 của Công ty cổ phần đăng kiểm xe cơ giới giao thông Lào Cai xác định: Khung xe, thân vỏ: Đúng kiểu loại; Hệ thống điện, đèn chiếu sáng, đèn tín hiệu hoạt động bình thường; Tổng thành động cơ và hệ thống liên quan đúng kiểu loại, lắp đặt chắc chắn, hoạt động bình thường; Hệ thống lái đúng kiểu loại, lắp đặt chắc chắn, hoạt động bình thường; Hệ thống phanh: Đạt yêu cầu kỹ thuật; Hệ thống treo, truyền lực, chuyển động: Đạt yêu cầu an toàn kỹ thuật. Kết luận: Phương tiện hiện tại không thỏa mãn quy định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Đình T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số: 88/CT-VKS ngày 03/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Phạm Đình T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh theo bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất mức độ thực hiện hành vi của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 65 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Phạm Đình T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” xử phạt bị cáo Phạm Đình T mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo giấy phép lái xe; Tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Đình T:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Khoảng 14 giờ 20 phút 23/02/2022, bị cáo T điều khiển xe ô tô BKS 15C - 306.15 đi ra đường Hàm Nghi để đi về nhà. Khi đi đến khu vực cách vòng xuyến ngã sáu giao nhau giữa các đường Hàm Nghi - Trần Hưng Đạo - Yết Kiêu - Nguyễn Huệ - Lý Công Uẩn - Trần Nhật Duật cách khoảng 13 mét - 15 mét, bị cáo Trường nhìn thấy áo khoác của mình đang để ở phanh tay của xe ô tô, bị cáo tiếp tục nhìn xuống phía vị trí đặt áo, sau đó dùng tay phải cầm áo khoác đặt sang bên phía ghế phụ của ô tô, khi vừa đặt chiếc áo xong, Phạm Đình T nhìn lên thì thấy phía trước phía bên trái có 01 xe máy điện do ông Phạm Xuân M điều khiển đi từ khu vực vòng xuyến hướng ra đại lộ Trần Hưng Đạo. Thấy vậy, bị cáo T dùng chân phải đạp phanh xe ô tô lại, nhưng đã đâm vào xe máy điện do ông Phạm Xuân M điều khiển. Sau khi xảy ra va chạm Phạm Đình T điều khiển tiếp tục đi được khoảng 04, 05 mét nữa sau đó mới dừng lại, Phạm Đình T xuống xe ô tô để kiểm tra thì thấy bên dưới gầm xe ô tô xe máy điện đổ nghiêng sang trái, đầu xe máy điện quay về phía đại lộ Trần Hưng Đạo, đuôi xe máy điện quay về phía vòng xuyến, cách xe máy điện khoảng 02 mét, ông Phạm Xuân M đang bị thương, nằm bất động trên mặt đường, Phạm Đình T đã cùng người dân đưa ông Phạm Xuân M đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lào Cai, đến khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày, ông Phạm Xuân M tử vong tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lào Cai.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy việc bị cáo khi tham gia giao thông đường bộ khi đi vào vòng xuyến bị cáo không nhường đường cho xe đi từ bên trái tới gây tai nạn, hậu quả làm ông Phạm Xuân M bị tử vong. Như vậy, Phạm Đình T đã vi phạm vào khoản 2 Điều 24 Luật giao thông đường bộ có đủ cơ sở để kết luận bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến tính mạng, tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất an toàn trong hoạt động giao thông đường bộ. Như vậy cần phải xét xử bị cáo với một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau khi phạm tội tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải, bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho đại diện người bị hại. Người bị hại có lỗi khi tham gia giao thông không giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn khi đi qua đoạn đường giao nhau cùng mức vi phạm điều 5 Thông tư 31/2019/TT- BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ giao thông vận tải quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ, khi tham gia giao thông định lượng Ethanol (cồn) trong máu của ông Phạm Xuân M là 82,mg/dl vi phạm khoản 8, điều 8 Luật giao thông đượng bộ; Người đại diện bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; Bị cáo có bố đẻ là ông Phạm Đình K được tặng thưởng Huân chương kháng chiến. Vì vậy được áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có [5] Về biện pháp chấp hành hình phạt: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào điều 65 của Bộ luật Hình sự, hướng dẫn tại nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét thấy cần cho bị cáo được hưởng án treo là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện người bị hại đã được bị cáo bồi thường số tiền 180.000.000 đồng không đề nghị giải quyết việc bồi thường nữa, nên hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 xe ô tô BKS 15C - 306.15 nhãn hiệu KIA THACO màu sơn xanh loại xe tải có mui kèm theo 01 chứng nhận đăng ký xe, 01giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự. Quá trình điều tra xác định chiếc xe ô tô và giấy tờ trên của ông Nguyễn Quý V, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả lại chiếc xe ô tô và giấy tờ trên cho ông Nguyễn Quý V là có căn cứ; Đối với 01 xe máy điện BKS 24MĐ1 - 011.09 của ông Phạm Xuân M (Bị hại), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả lại chiếc xe máy điện trên cho ông Phạm Xuân K (Đại diện bị hại) là có căn cứ; Đối với 01 giấy phép lái xe ô tô hạng B2 số 310105000361 mang tên Phạm Đình T cần trả lại cho bị cáo.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự, hình phạt:

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 65 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Phạm Đình T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Xử phạt bị cáo Phạm Đình T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã V, thành phố L, tỉnh Lào Cai theo dõi, giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú, làm việc thì thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách của án treo: “Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Phạm Đình T: 01 giấy phép lái xe hạng B2 số 310105000361 mang tên Phạm Đình T.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 điều 135 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Phạm Đình T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, Người đại diện hợp pháp của người bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 107/2022/HS-ST

Số hiệu:107/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về