TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 708/2021/HS-PT NGÀY 23/12/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa để xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 1035/2021/TLPT-HS ngày 12 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo Dương V L I và các bị cáo khác, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2021/HS-ST ngày 01/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình.
* Các bị cáo có kháng cáo:
1. Dương Văn Lộc I, sinh ngày 04/3/1976 tại Bắc Giang; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn Ngọc T, xã Ngọc S, huyện Hiệp H, tỉnh Bắc Giang; chỗ ở trước khi bị bắt: số nhà 20, ngõ 208, đường Tam Tr, quận Hoàng M, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn Q và bà Nguyễn Thị D (đều đã chết); có vợ là Nguyễn Thị Q1 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: tại Bản án số 81/2015/HSST ngày 26/3/2015 bị Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 18/12/2016); Ngày 11/9/2020, bị Công an tỉnh Hòa Bình xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2019 cho đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa;
2. Trương Xuân B, sinh ngày 09/9/1979 tại Thái Nguyên; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xóm Đoàn K, xã An Kh, huyện Đại T1, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: lao động tự do, trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Đại Ch (đã chết) và bà Nguyễn Thị S; có vợ là Lưu Thị H1 (đã ly hôn); và có 02 con (con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2009); tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: tại Bản án số 85/2014/HSST ngày 11/6/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xử phạt 28 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (bị cáo chấp hành xong hình phạt tù);
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2019 cho đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa;
3. Đào Mạnh D, sinh ngày 26/10/1987 tại Bắc Ninh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu 10, phường Đại Ph, thành phố Bắc N, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Văn H2 và bà Nguyễn Thị L; có vợ là Lê Thị Nh và có 01 con sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: tại Bản án số 49/2005/HSST ngày 02/02/2005, bị Tòa án nhân dân thị xã Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng; tại Bản án số 44/2008/HSST ngày 23/01/2008, bị Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 57 tháng; tại Bản án số 199/2013/HSST ngày 30/9/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”;
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2019 cho đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa;
* Người bào chữa cho bị cáo Dương V L I: Luật sư Lê Thị Hải Th - Văn phòng luật sư Hải Th, Đoàn luật sư tỉnh Hòa Bình. Có mặt;
* Người bào chữa cho các bị cáo Trương Xuân B, Đào Mạnh D: Luật sư Nguyễn Văn V - Văn phòng luật sư Vũ Duy T1, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Hòa Bình. Có mặt;
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Văn B1 bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, không có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình và Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 07 giờ 00 phút ngày 25/9/2019, Tổ công tác gồm các lực lượng gồm Phòng Cảnh sát điều tra (CSĐT) tội phạm về ma túy Công an tỉnh Hòa Bình, Cục CSĐT tội phạm về ma túy Bộ Công an, Phòng Cảnh sát Giao thông Công an tỉnh Hòa Bình, Công an huyện Tân Lạc, làm nhiệm vụ tại Km 110+900, Quốc lộ 6 thuộc địa phận xóm Trọng Vặn, xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, Hòa Bình, bắt quả tang Đào Mạnh D có hành vi vận chuyển trái phép chất nghi là ma túy trên xe ô tô FORD màu trắng, biển kiểm soát 15C - 083.30 hướng Sơn La đi Hà Nội. Quá trình điều tra Đào Mạnh D khai nhận cùng Dương V L I và Nguyễn Văn B1 đang vận chuyển ma túy về Hà Nội. Dương V L I và Trương Xuân B đi cùng xe ô tô MAZDA CX5 biển kiểm soát 30F 314.61, Nguyễn Văn B1 đi trên xe ô tô HUYNDAI ACCENT màu trắng, biển kiểm soát 30F-846.02 đi ngay phía sau D. Tổ công tác yêu cầu lái xe ô tô biển số 30F - 314.61 dừng xe ô tô nhưng Trương Xuân B không chấp hành mà quay đầu xe bỏ chạy, ngay lúc đó để đảm bảo an toàn cho lực lượng vây bắt và quần chúng nhân dân, tổ công tác đã khống chế và Cơ quan điều tra đã ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp đối với Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B và Nguyễn Văn B1.
Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: khoảng tối ngày 23/9/2019, Dương V L I đang ở nhà người quen tên là Đặng Ngọc Đ, số nhà 20, ngõ 208, đường Tam Tr, quận Hoàng M, thành phố Hà Nội thì Sùng A Ch người dân tộc H'Mông, nơi cư trú: xã Trung Lý, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa (I quen Ch khi đi mua gỗ ở Thanh Hóa năm 2017) gọi điện thoại cho I, thuê I vận chuyển ma túy cho Ch từ Thanh Hóa về Hà Nội, khi I vận chuyển ma túy về đến Hà Nội, Ch sẽ cho địa chỉ và người nhận ma túy sẽ trả công cho I là 50.000.000đ, Ch hướng dẫn I đường đi đến nhà Ch, I đồng ý.
Chiều ngày 24/9/2019, Dương V L I gọi điện thoại bảo Trương Xuân B đi sang huyện Mường Lát, Thanh Hóa gặp I có việc (ý nói vận chuyển ma túy); B đồng ý, một mình lái xe ô tô bán tải FORD màu trắng biển kiểm soát 15C - 083.30 đi từ tỉnh Yên Bái qua tỉnh Sơn La để đến huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa gặp I, dọc đường đi B và I thường xuyên liên lạc điện thoại với nhau để hỏi xem B đi đến đâu rồi; I bảo B gọi cho B1 cùng đi.
Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 24/9/2019, Dương V L I gọi điện thoại cho Đào Mạnh D, bảo D sang lái xe cho I đi có việc (mục đích của I là đi đến Thanh Hóa vận chuyển ma túy); D đồng ý, một mình đón xe taxi đi từ Bắc Ninh đến Hà Nội; khi đến Đại lộ Thăng Long, D gặp I một mình lái xe ô tô nhãn hiệu MAZDA CX5 biển kiểm soát 30F - 314.61 đi đến; D lên xe ô tô lái xe chở I ngồi ở bên ghế phụ đi theo chỉ dẫn của I. Khi đi đến khu vực tỉnh Hòa Bình thì I và D vào một quán không rõ địa điểm ven đường ăn cơm.
Khoảng 19 giờ ngày 24/9/2019, Trương Xuân B gọi điện thoại cho Nguyễn Văn B1, B bảo B1 đi xe ô tô của B1 lên Co Lương, Mai Châu gặp I có việc, I trả tiền xăng và tiền công lái xe Taxi cho B1 (I và B và D quen biết nhau từ trước, B1 lái xe Taxi, thỉnh thoảng I, B có thuê xe của B1 đi việc cá nhân nên I, B và B1 có quen biết nhau). B1 đồng ý, một mình điều khiển xe ô tô hiệu HUYNDAI ACCENT màu trắng, biển kiểm soát 30F - 846.02 đi từ Hà Nội đến khu vực xã Co Lương, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa B1 gặp I. Còn D, sau khi ăn cơm xong, D thấy I gọi điện thoại cho ai đó hỏi đi đến đâu rồi, sau đó D tiếp tục lái xe chở I đi theo chỉ dẫn của I hướng đi huyện Mai Châu, Hòa Bình.
Khi D chở I đến khu vực xã Co Lương, huyện Mai Châu thì I bảo D dừng xe lại ở điểm vắng, D xuống xe đi vệ sinh, còn I thay biển kiểm soát xe ô tô của I đang đi bằng biển kiểm soát khác (biển kiểm soát 36E-542.31), lúc đó, Nguyễn Văn B1 một mình lái xe ô tô biển kiểm soát 30F - 846.02 đi đến, đỗ sau xe ô tô của I và D; B1 xuống xe gặp I, I bảo B1 đi theo xe ô tô của I, B1 đồng ý; I lên xe ngồi ở ghế phụ, bảo D lái xe ô tô CX5 của I đi theo hướng Hồi Xuân, Quan Hóa sau đó đi đến huyện Mường Lát, Thanh Hóa.
Khi B1 lái xe ô tô đi theo xe của I đến một ngã ba thì B1 rẽ nhầm đường nên không thấy xe ô tô của I đâu, B1 gọi điện thoại cho I hỏi đường thì I bảo B1 định vị đi đến Quan Hóa, B1 làm theo chỉ dẫn của I. Khi B1 lái xe ô tô đi đến địa điểm cách huyện Mường Lát, Thanh Hóa khoảng 30km thì B1 và I có liên lạc điện thoại với nhau, I bảo B1 đi về trước theo hướng thủy điện Trung Sơn, trên đường đi nếu gặp Công an thì báo để I biết. B1 đồng ý làm theo lời I, lúc này B1 biết I đi Mường Lát là để vận chuyển ma túy về Hà Nội và bảo B1 đi trước làm hoa tiêu nếu có Công an báo cho I biết để tránh khỏi bị bắt. Còn D lái xe chở I đi đến khu vực Mường Lát, Thanh Hóa, D thấy I gọi điện thoại cho B hỏi đi đến đâu rồi.
Khi D điều khiển xe đến đoạn đường đồi núi, I bảo D dừng xe, xuống sau lấy can xăng đổ vào xe ô tô, D xuống đổ xăng vào xe ô tô, sau đó D lên xe thì thấy I gọi điện thoại và nói qua điện thoại nói “Anh vào nhà hay như thế nào”, sau đó, I bảo D lái xe đi tiếp khoảng 02 km thì thấy bên đường có 01 người đàn ông bật điện thoại ra tín hiệu, I bảo D dừng xe, I xuống xe, bảo D lái xe tiến lên khoảng 01km thì dừng lại, lúc nào I gọi điện thoại thì D quay lại đón. D đồng ý lái xe đi tiếp, còn I ở lại với người đàn ông trên. D lái xe đi khoảng 01km thì dừng lại quay, đầu xe chờ, khoảng 10 phút sau I gọi điện thoại bảo D quay lại đón I, D lái xe đến đón I, đi tiếp khoảng 01km thì I bảo D đỗ xe lại.
Sau đó, I gọi điện thoại cho B hỏi đi đến đâu rồi, I hướng dẫn D đi tiếp theo hướng vào Mường Lát, đi được khoảng 02 km thì gặp xe bán tải của Trương Xuân B một mình điều khiển đi ngược chiều. D đỗ xe lại, B quay đầu xe, đỗ xe phía sau sát xe của D và I. Khi gặp nhau, I bảo B đi theo xe của I, B đồng ý. Sau đó I lên xe ô tô và bảo D đi tiếp, khi đi được khoảng 03km thì gặp 03 người đàn ông đang đứng bên lề đường, I bảo D dừng xe lại, ngay lúc đó xe B cũng đến và đỗ sau xe của I và D. Dương V L I xuống xe, bảo D đi tiếp lên đoạn trên khi nào I gọi thì quay lại đón; I đi đến gặp ba người đàn ông, lúc này một trong ba người đàn ông đưa cho I một bọc ma túy, I cầm bọc ma túy và mang sang xe bán tải biển kiểm soát 15C - 083.30 do B điều khiển. B quay lại nhìn thấy I ôm bọc ma túy, để ma túy ở hàng ghế sau xe của B và ngồi cùng bọc ma túy mà I vừa ôm lên xe. B hỏi I là cái gì đấy, I nói có ít ma túy mang về, B không hỏi gì thêm.
Lúc này, D một mình lái xe đi theo hướng ra khỏi Mường Lát, còn B vẫn ngồi trên xe ở vị trí lái. Sau đó I bật đèn trần xe của B để kiểm tra bọc ma túy mà I vừa mang lên xe. Khi I kiểm tra, B thấy I bảo thiếu hàng và không đúng chủng loại và B biết là I đi vận chuyển ma túy. Sau đó I bảo B gọi điện thoại cho D quay lại mang điện thoại cho I (điện thoại I để trên xe ô tô của I do D đang điều khiển). Đồng thời, I bảo B gọi điện thoại cho B1 hỏi xem B1 đang ở đâu. B gọi điện cho B1 và bảo B1 kết nối Zalo gọi video với B. Khoảng 15 phút sau, D lái xe ô tô CX5 của I quay lại đỗ gần xe ô tô của B. Do vẫn bật đèn trần trên xe nên B thấy I cầm theo một túi ni lông màu đen được lấy từ trong bọc ma túy to (bọc to mà I mang lên xe) ra. Sau đó I tắt điện và cầm theo túi ni lông đen đó xuống xe và bảo B đi trước có gì I sẽ gọi điện. Sau đó I đi sang xe của D đang chờ bên đường. B nổ máy xe đi theo hướng ra khỏi Mường Lát, còn I lên lái xe ô tô của I, D ngồi bên ghế phụ, quay lại địa điểm người đàn ông gặp lúc đầu. I xuống xe và vào nhà của người đàn ông này khoảng 10 phút, sau đó I ra xe và chở D quay lại chỗ 3 người đàn ông gặp lúc trước. Khi I và D tới nơi thì 01 trong ba người này đưa qua cửa kính xe cho I một bọc nilon màu đen, I cầm để lên hộp tỳ tay của xe ô tô sau đó lái xe chở D đi về.
Khi I điều khiển xe ô tô chở D đi được khoảng 10 km thì gặp xe B đang đỗ ở lề đường, I đỗ xe, cầm bọc nilon màu đen, mở cốp sau của xe, ô tô của mình lấy một túi vải màu tím pha ni lông màu trắng mang sang xe của B rồi cho toàn bộ số ma túy đó vào túi và để ở hàng ghế sau xe B điều khiển. Sau đó, I sang lái xe chở D đi về, còn B lái xe ô tô biển kiểm soát 15C - 083.30 chở ma túy đi theo sau.
Trên đường về B có gọi Zalo bằng hình ảnh cho B1, bảo B1 đi nhanh lên, quay camera về phía trước để B xem đường, B1 đồng ý và làm theo. Lúc này Nguyễn Văn B1 nhận thức được ngoài I, D còn có B cũng tham gia vận chuyển ma túy; B1 làm theo lời B được một lúc thì máy điện thoại của B1 và B mất kết nối.
Trên đường từ Mường Lát về do xe ô tô của B1 gầm thấp nên đi chậm, do đó xe của B và xe của I, D đi vượt qua xe ô tô của B1. I tiếp tục điều khiển xe CX5 chở D ngồi bên ghế phụ đi về, còn B một mình lái xe bán tải biển kiểm soát 15C - 083.30 đi phía sau, tiếp đến là xe của B1. Khi đi được khoảng 10km, B gọi điện thoại cho I và D, B nói buồn ngủ và bảo D xuống lái xe bán tải cho B, sau đó D xuống lái xe bán tải cho B, còn B xuống nằm ở hàng ghế sau xe và gối đầu lên túi ma túy của I ngủ; I lái xe CX5 một mình đi trước. Dọc đường đi về, I có dừng xe và tháo biển kiểm soát giả mà I đang sử dụng rồi lắp lại biển kiểm soát 30F - 314.61. Khi đi đến khu vực thủy điện Trung Sơn thì xe I và xe D (chở B và ma túy của I) đỗ lại, lúc này xe HUYNDAI biển kiểm soát 30F - 846.02 màu trắng của B1 điều khiển vượt lên đi đầu. Khi B1 đi đến khu vực Co Lương, Mai Châu thì B1 rẽ vào mua xăng, I nhìn thấy xe ô tô của B1 rẽ nên I gọi điện thoại cho B1 hỏi “Sao đi lối đấy” thì B1 nói là vào mua xăng, I không nói gì mà tiếp tục lái xe CX5 đi tiếp.
Đào Mạnh D lái xe bán tải chở B cùng túi ma túy đi sau, khi đi đến địa phận huyện Tân Lạc, Hòa Bình, D thấy xe I đỗ ven đường nên cũng đỗ xe lại ở ven đường; I bảo buồn ngủ nên B xuống lái xe CX5 cho I, còn I ngồi bên ghế phụ. Dùng một mình lái xe bán tải biển kiểm soát 15C - 083.30 vượt lên đầu và đi tiếp; còn B1, sau khi mua xăng xong quay ra thì lại đi cuối cùng.
Khi xe bán tải biển kiểm soát 15C - 083.30 do D đang điều khiển đi được khoảng 01km thì gặp Tổ công tác đang làm nhiệm vụ yêu cầu dừng xe kiểm tra, phát hiện trong túi vải màu tím pha nilon màu trắng trên xe ô tô D đang điều khiển nghi có ma túy nên Tổ công tác đã đưa D cùng toàn bộ vật chứng về trụ sở Công an huyện Tân Lạc để làm việc, lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang cùng toàn bộ tang vật. Đồng thời ra lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B và Nguyễn Văn B1.
Tại Kết luận giám định số 270/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 05/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình kết luận:
- Chất dạng tinh thể màu trắng trong gói ký hiệu Gói 1, Gói 2 trong hộp niêm phong một mặt ghi “Vật chứng nghi là ma túy thu giữ trên xe ô tô nhãn hiệu FORD, biển kiểm soát: 15C-083.30 là do Đào Mạnh D điều khiến tại thị trấn Mường Khến - Tân Lạc - Hòa Bình ngày 25/9/2019” có tổng khối lượng 1.982,09g (Một nghìn chín trăm tám mươi hai phẩy không chín gam).
Chất dạng tinh thể màu trắng ký hiệu M1, M2 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine.
- Chất dạng tinh thế màu trắng trong gói ký hiệu từ Gói 3 đến Gói 10 trong hộp niêm phong một mặt ghi “Vật chứng nghi là ma túy thu giữ trên xe ô tô nhãn hiệu FORD, BKS: 15C-083.30 do Đào Mạnh D điều khiển tại thị trấn Mường Khến - Tân Lạc - Hòa Bình ngày 25/9/2019” có tổng khối lượng 7.778,98g (Bảy nghìn bảy trăm bảy mươi tám phẩy chín mươi tám gam).
Chất dạng tinh thể màu trắng ký hiệu từ M3 đến M10 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine.
- Chất bột dạng cục màu trắng trong gói ký hiệu từ Gói 11 đến Gói 14 trong hộp niêm phong một mặt ghi “Vật chứng nghi là ma túy thu giữ trên xe ô tô nhãn hiệu FORD, biển kiểm soát: 15C-083.30 do Đào Mạnh D điều khiến tại thị trấn Mường Khến - Tân Lạc - Hòa Bình ngày 25/9/2019” có tổng khối lượng 1.386,83g (Một nghìn ba trăm tám mươi sáu phẩy tám mươi ba gam).
Chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu từ M11 đến M14 gửi giám định là ma túy, loại Heroine.
Tại Kết luận giám định số 14/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 16/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình kết luận:
- Mảnh viên nén màu hồng trong phong bì niêm phong một mặt ghi “Vật chứng nghi là ma túy thu giữ trên xe ô tô BKS: 30F - 31461 do Trương Xuân B điều khiển ngày 25/9/2019 tại thị trấn Mường Khến - Tân Lạc - Hòa Bình” gửi giám định có khối lượng 0,07g (Không phẩy không bẩy gam), là ma túy, loại Methamphetamine.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2021/HS-ST ngày 01/10/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình đã quyết định:
Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Dương V L I Tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Trương Xuân B Tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đào Mạnh D tù Chung thân về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 25/9/2019.
Tiếp tục tạm giam Dương V L I, Trương Xuân B để đảm bảo thi hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn B1; xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 04/10/2021, các bị cáo Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B kháng cáo xin giảm hình phạt.
Ngày 13/10/2021, bị cáo Đào Mạnh D kháng cáo với nội dung Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo không khách quan, không đúng bản chất sự việc.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Đào Mạnh D thay đổi nội dung kháng cáo từ đề nghị xem xét Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo không khách quan, không đúng bản chất sự việc sang kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và thừa nhận Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, không oan. Tuy nhiên về hình phạt, các bị cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt là quá nặng và gia đình bị cáo xuất trình tài liệu thể hiện gia đình có công với cách mạng. Bị cáo Đào Mạnh D trình bày, bị cáo quen biết I trong thời gian cải tạo, chiều ngày 24/9/2019, I gọi điện cho D, bảo D sang lái xe cho I đi có việc và hẹn gặp nhau ở Đại lộ Thăng Long. Khi gặp D, I bảo D lái xe (Mazda CX5) đi theo sự chỉ dẫn của I vào Mường Lát, Thanh Hóa, sau đó I xuống gặp 03 người dân tộc để trao đổi, còn D ngồi trên xe ô tô của I, sau khi trao đổi xong thì I đi ra xe ô tô mang theo 01 bọc nilon màu đen và bảo D điều khiển xe ô tô đi về. Đi được khoảng 10km thì gặp xe ô tô của B đỗ ở lề đường, I cầm bọc nilon màu đen sang để ở hàng ghế sau xe Ford của B. Sau đó, I, D tiếp tục đi về, còn B lái xe của B đi theo sau. Do B buồn ngủ nên gọi điện thoại cho I bảo D sang lái xe của B để B sang đi cùng xe ô tô với I. Khi D lái xe của B đi được khoảng 01 km thì bị Công an dừng xe kiểm tra.
Tại phiên tòa, bị cáo Dương V L I rút toàn bộ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo I trình bày: I quen biết D trong thời gian cải tạo. I thừa nhận lời khai của D trình bày là đúng. Chiều ngày 24/9/2019, I gọi điện cho D, bảo D sang lái xe cho I đi có việc và hẹn gặp nhau ở Đại lộ Thăng Long. Khi gặp nhau I bảo D lái xe đi Mường Lát, Thanh Hóa, nhưng không nói rõ mục đI đi vào Mường Lát làm gì. Tuy nhiên, theo bị cáo thì do đi vào ban đêm và khi I gặp 03 người đàn ông ở Mường Lát để trao đổi thì I cho rằng D biết việc I giao dịch mua bán ma túy vì với không gian, thời gian, địa điểm trao đổi thì D biết việc mua bán ma túy của I, B. Bị cáo không hứa hẹn và không bàn bạc với D về việc vận chuyển ma túy.
Tại phiên tòa, bị cáo Trương Xuân B rút toàn bộ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo B trình bày: Số ma túy I mua được để trên xe ô tô Ford của B và do B điều khiển. Tuy nhiên, do I buồn ngủ nên I đã điện thoại cho B lên lái xe Mazda CX5 của I, còn D lái xe Ford của B. Khi D đi được khoảng 01km thì bị Công an dừng xe kiểm tra. Còn B, I đã chạy thoát và bị bắt giữ khẩn cấp.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội trình bày quan điểm giải quyết vụ án:
Tại phiên tòa, bị cáo Dương V L I và bị cáo Trương Xuân B rút toàn bộ kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B.
Lời khai nhận tội của các bị cáo Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B, Đào Mạnh D phù hợp với lời khai của bị cáo khác, phù hợp khách quan với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản thu giữ vật chứng; Kết luận giám định...đủ cơ sở kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và xử phạt các bị cáo Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B, Đào Mạnh D về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Về hình phạt: hành vi của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước được pháp luật bảo vệ, hành vi đó gây mất trật tự trị an tại địa phương; bị cáo vận chuyển trái phép khối lượng ma túy là rất lớn (7.778,98g Methamphetamine, 1.386,83g Heroine, 1.982,09g Ketamine ), nên cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt, tương xứng với hành vi từng bị cáo thực hiện. Khi quyết định mức hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét vị trí, vai trò của các bị cáo Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B; trong vụ án này, bị cáo Dương V L I là người khởi xướng, liên lạc với đối tượng khác, trực tiếp rủ rê các bị cáo khác tham gia, trực tiếp nhận ma túy, kiểm tra số lượng, chủng loại, chất lượng ma túy để vận chuyển. Trương Xuân B giúp sức tích cực cho bị cáo I vận chuyển ma túy, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo mức hình phạt cao nhất, loại bỏ các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội là phù hợp. Tuy nhiên, đối với bị cáo Đào Mạnh D, phạm tội hoàn toàn là do Dương V L I rủ rê, lôi kéo, bị cáo không được bàn bạc, không được hưởng lợi; xem xét tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, thấy Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá vai trò của bị cáo Đào Mạnh D có mức độ, vai trò cao hơn bị cáo Nguyễn Văn B1 là chưa chính xác, nên quyết định mức hình phạt tù chung thân đối với bị cáo Đào Mạnh D là quá nặng, chưa tương xứng với tính chất, vị trí, vai trò của bị cáo; tại phiên tòa gia đình bị cáo xuất trình tài liệu thể hiện gia đình có công với cách mạng nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Đào Mạnh D.
Người bào chữa cho bị cáo Dương V L I và bị cáo Dương Xuân B trình bày: Tại phiên tòa, bị cáo Dương Văn Lộc I, Dương Xuân B rút toàn bộ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận việc các bị cáo tự nguyện rút kháng cáo.
Người bào chữa cho bị cáo Đào Mạnh D trình bày: tại phiên tòa phúc thẩm đã thể hiện, bị cáo I không trao đổi hay bàn với bị cáo D về việc đi vận chuyển ma túy. Bị cáo B khai, do buồn ngủ nên không nói gì với bị cáo D về bọc ma túy để trên xe của B. Ma túy của bị cáo I, xe ô tô chở ma túy là của B, D cũng không được bàn bạc về tiền công vận chuyển ma túy. Khi gặp 03 người đàn ông tại khu vực Trung Lý, Mường Lát, Thanh Hóa, I bảo D lái xe tiến lên trên là I cố tình không cho D biết. Tuy nhiên, căn cứ tài liệu, chứng cứ, quá trình tranh tụng, đã xác định bị cáo D nhận thức được việc đi cùng I mục đích là để vận chuyển ma túy, nên nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá về vị trí, vai trò, mức độ hành vi phạm tội, để giảm nhẹ hình phạt, xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi, vai trò của bị cáo.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, tài liệu, ý kiến của Kiểm sát viên, Người bào chữa và của bị cáo,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử không có khiếu nại về hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng, nên các tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ là hợp pháp. Đơn kháng cáo của các bị cáo Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B, Đào Mạnh D trong hạn luật định, nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục xét xử phúc thẩm.
Tại phiên tòa, bị cáo Dương V L I và bị cáo Trương Xuân B rút toàn bộ kháng cáo. Theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, căn cứ Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B.
Đồng thời, cũng tại phiên tòa bị cáo Đào Mạnh D thay đổi nội dung kháng cáo từ kháng cáo kêu oan sang kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ để chấp nhận việc thay đổi kháng cáo của bị cáo Đào Mạnh D.
[2] Về nội dung: tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B, Đào Mạnh D đều đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với chính lời khai nhận tội của các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phù hợp biên bản phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định và các tài liệu, cùng chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: ngày 25/9/2019, Dương V L I cùng Trương Xuân B, Đào Mạnh D và Nguyễn Văn B1 đi 03 xe ô tô để vận chuyển ma túy từ Thanh Hóa đến Hà Nội, mục đích để Dương V L I được nhận tiền công là 50.000.000 đồng. Trên đường đi, khi đến Km 110 + 900, Quốc lộ 6 thuộc địa phận xóm Trọng Vặn, xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, Hòa Bình thì bị Tổ công tác phát hiện bắt quả tang hồi 07 giờ 00 phút ngày 25/9/2019. Thu giữ trên xe ô tô bán tải hiệu FORD, biển kiểm soát 15C - 083.30 (xe của Trương Xuân B) có ba chất ma túy gồm: 7.778,98gam Methamphetamine, 1.386,83gam Heroine, 1.982,09gam Ketamine do Đào Mạnh D điều khiển; đi sau là xe ô tô hiệu MAZDA CX5, Biển kiểm soát 30F- 314.61 (xe của Dương Văn Lộc I) do Trương Xuân B điều khiển chở I và sau cùng là xe ô tô hiệu HUYNDAI màu trắng biển kiểm soát 30F-846.02 của Nguyễn Văn B1 do B1 điều khiển đi một mình. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và xử phạt Dương V L I cùng Trương Xuân B, Đào Mạnh D đều về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Đối với bị cáo Nguyễn Văn B1 cũng đã bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự, bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không đề cập về tội danh, hình phạt đối với bị cáo.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Đào Mạnh D, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
[3.1] Về tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo: hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước được pháp luật bảo vệ, hành vi đó gây mất trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì hám lợi, các bị cáo đã bất chấp pháp luật, vận chuyển trái phép chất ma túy (7.778,98gam Methamphetamine, 1.386,83gam Heroine, 1.982,09gam Ketamine) mục đích để kiếm lời. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần phải phân hóa vị trí, vai trò, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp, tương xứng với từng bị cáo.
[3.2] Về vị trí, vai trò của các bị cáo Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B: đây là vụ án đồng phạm, có 04 bị cáo thực hiện tội phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, không phải trường hợp phạm tội có tổ chức; các bị cáo cùng tham gia, cùng thực hiện hành vi phạm tội theo tự bản thân nhận thức; ngay từ ban đầu các bị cáo không phân chia vai trò rõ ràng của từng người, cũng như cách thức, phương pháp vận chuyển ma túy, trong đó bị cáo Dương V L I là người khởi xướng, liên lạc với người cung cấp ma túy, có phương tiện (xe ô tô CX5), mang theo 03 biển kiểm soát giả, trực tiếp thay biển kiểm soát giả; liên lạc với 03 người đàn ông ở khu vực Trung Lý, Mường Lát, Thanh Hóa; trực tiếp nhận ma túy và mang ma túy để trên xe ô tô của B do B lái, nói với B là có ít ma túy mang về; bật đèn trần xe kiểm tra ma túy; sau khi kiểm tra ma túy, phát hiện thiếu hàng và không đúng chủng loại nên đã nói với B về việc này, sau đó, trực tiếp quay lại đổi ma túy. Khi quay lại đổi ma túy, I lái xe CX5 chở D, sau khi đổi được ma túy, I lấy túi nilon mang theo để cuối xe CX5 mang sang xe B và cho tất cả số ma túy vào túi này để trên xe B; rủ rê, lôi kéo các bị cáo khác vận chuyển ma túy. Bị cáo Trương Xuân B biết rõ bị cáo I mang ma túy lên xe ô tô của mình nhưng vẫn đồng ý chở ma túy cho I. Khi I bật đèn trần xe, B nghe rõ thấy I nói “Thiếu hàng và không đúng chủng loại”, sau đó, B gọi D quay lại đưa điện thoại cho I theo yêu cầu của I (trước đó I đi cùng xe với D). Khi D lái xe CX5 của I quay lại gặp I, B nhìn thấy I lấy một túi nilon màu đen từ trong bọc ma túy to (bọc to mà I mang lên xe B) và cầm theo sang xe D, I lái xe CX5 chở D ngồi ghế phụ, B nghĩ, I quay lại đổi ma túy. B lái xe chở ma túy cho I từ lúc nhận ma túy ở Mường Lát, Thanh Hóa đến khi D sang lái xe cho B ngủ, khi ngủ, B gối đầu lên bọc ma túy. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định, xác định B là người thực hành tích cực nhất, vai trò tương đương với I là có căn cứ.
[3.3] Về vị trí, vai trò, mức hình phạt của bị cáo Đào Mạnh D: tại phiên tòa hôm nay, qua xét hỏi tranh tụng công khai đã làm rõ được bị cáo Đào Mạnh D quen biết Dương V L I trong thời gian cải tạo. Chiều ngày 24/9/2019, I gọi điện cho D, bảo D sang lái xe cho I đi có việc và hẹn gặp nhau ở Đại lộ Thăng Long. Khi gặp D, I bảo D lái xe (Mazda CX5 của I) đi theo sự chỉ dẫn của I vào Mường Lát, Thanh Hóa, sau đó I xuống gặp 03 người dân tộc để trao đổi, còn D ngồi trên xe ô tô của I, sau khi trao đổi xong thì I đi ra xe ô tô mang theo 01 bọc nilon màu đen và bảo D điều khiển xe ô tô đi về. Đi được khoảng 10km thì gặp xe ô tô của B đỗ ở lề đường, I cầm bọc nilon màu đen sang để ở hàng ghế sau xe Ford của B. Sau đó, I, D tiếp tục đi về, còn B lái xe của B đi theo sau. Do B buồn ngủ nên gọi điện thoại cho I bảo D sang lái xe của B để B sang đi cùng xe ô tô với I. Khi D lái xe của B đi được khoảng 01 km thì bị Công an dừng xe kiểm tra.
Lời khai của Đào Mạnh D phù hợp với lời khai của bị cáo Dương Văn Lộc I, thể hiện: I thừa nhận lời khai của D trình bày là đúng. I quen biết D trong thời gian cải tạo. Chiều ngày 24/9/2019, I gọi điện cho D, bảo D sang lái xe cho I đi có việc và hẹn gặp nhau ở Đại lộ Thăng Long. Khi gặp nhau, I bảo D lái xe đi Mường Lát, Thanh Hóa, nhưng không nói rõ mục đích đi vào Mường Lát làm gì. Tuy nhiên, theo bị cáo thì do đi vào ban đêm và khi I gặp 03 người đàn ông ở Mường Lát để trao đổi thì I cho rằng D biết việc I giao dịch mua bán ma túy, với không gian, thời gian, địa điểm trao đổi thì I nghĩ D biết việc mua bán ma túy của I, B. I không hứa hẹn và không bàn bạc với D về việc vận chuyển ma túy.
Tại phiên tòa, bị cáo Trương Xuân B trình bày: Số ma túy I mua được để trên xe ô tô Ford của B và do B điều khiển. Tuy nhiên, do I buồn ngủ nên I đã điện thoại cho B lên lái xe Mazda CX5 của I, còn D lái xe Ford của B. Khi D đi được khoảng 01km thì bị Công an dừng xe kiểm tra. Còn B, I đã chạy thoát và bị bắt giữ khẩn cấp sau đó.
Như vậy, căn cứ vào lời khai của I, B và quá trình tranh tụng công khai tại phiên tòa đã làm rõ được, ban đầu D không hề biết đi cùng I để vận chuyển trái phép chất ma túy và cũng không được I hứa hẹn trả công. Tuy nhiên, sau đó D biết việc I mua bán trái phép chất ma túy, D đã tiếp nhận ý chí của I trong việc vận chuyển ma túy từ Thanh Hóa về Hà Nội nên D phải chịu trách nhiệm hình sự chung với trọng lượng ma túy mà I tham gia vận chuyển trái phép. Trong vụ án này, bị cáo D bị I rủ rê, lôi kéo, phạm tội thụ động, không biết số lượng, chủng loại ma túy mà I vận chuyển; bị cáo cũng không được I phân công, bàn bạc hay hứa hẹn phân chia lợi nhuận; hành vi của bị cáo chỉ thể hiện ở việc lái xe ô tô chở I, B trong quá trình di chuyển từ Thanh Hóa về Hà Nội; bị cáo không chủ động trong việc lái xe ô tô có chứa ma túy trong quá trình di chuyển, mà hoàn toàn thực hiện theo yêu cầu của I, B. Trong khi đó, bị cáo Nguyễn Văn B1 (là bị cáo trong cùng vụ án không kháng cáo) cũng là người trực tiếp, tiếp nhận ý chí của bị cáo I trong việc vận chuyển ma túy từ Thanh Hóa về Hà Nội; B1 còn thực hiện hành vi phạm tội theo yêu của I là đi trước dẫn đường; làm hoa tiêu; kết nối Zalo quay video với B, trường hợp phát hiện có Công an thì báo cho I và B biết để tránh bị phát hiện. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định, Đào Mạnh D và Nguyễn Văn B1 có vai trò ngang nhau, cấp sơ thẩm nhận định, xác định Đào Mạnh D có vai trò cao hơn Nguyễn Văn B1 là chưa phù hợp với diễn biến khách quan hành vi phạm tội của các bị cáo; do đó, mức hình phạt tù chung thân mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Đào Mạnh D là có phần nghiêm khắc, chưa tương xứng với mức độ, vai trò của bị cáo như đã phân tích. Tại phiên tòa hôm nay, gia đình bị cáo xuất trình tài liệu thể hiện gia đình có công với cách mạng, bị cáo có bác ruột là ông Nguyễn Văn Vượng được tặng thưởng Huân Chương chiến công hạng III và Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng Nhì. Đây là các tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên được cấp phúc thẩm áp dụng đối với bị cáo Đào Mạnh D.
Tổng hợp những phân tích nêu trên, trên cơ sở đánh giá, xác định, phân hóa vị trí, vai trò của từng bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Đào Mạnh D, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm hình phạt cho bị cáo như quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trình bày tại phiên tòa hôm nay, tương xứng với vị trí, vai trò của bị cáo, đảm bảo công tác cải tạo, giáo dục bị cáo, phòng chống tội phạm chung.
[4] Về án phí: các bị cáo Dương Văn Lộc Ích, Trương Xuân B rút kháng cáo và kháng cáo của bị cáo Đào Mạnh D được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357; Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B; Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2021/HS-ST ngày 01/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình đối với các bị cáo Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B có hiệu lực kể từ ngày 23/12/2021.
Trong hạn 07 (Bảy) ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, các bị cáo Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam xin ân giảm án tử hình.
[2]. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đào Mạnh D; Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2021/HS-ST ngày 01/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa B1 về hình phạt đối với bị cáo Đào Mạnh D.
Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đào Mạnh D 20 (Hai mươi) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/9/2019.
[3]. Về án phí: các bị cáo Dương Văn Lộc I, Trương Xuân B, Đào Mạnh D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4]. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5]. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 708/2021/HS-PT
Số hiệu: | 708/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về