Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 70/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 70/2020/HS-ST NGÀY 11/06/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 58/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2020/QĐXXST-HS ngày 26/5/2020 đối với bị cáo:

Lương Văn H, Sinh năm 1976 tại huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. ĐKHKTT: Bản N, xã T, huyện M, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam;Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 2/12; Con ông Lương Văn T và bà Lương Thị M, Gia đình có 06 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Vi Thị S, sinh năm 1981 (đã ly hôn); Vợ: Vi Thị K, sinh năm 1983 (đã ly hôn); Có 01 con gái sinh năm 1998; Tiền sự: Không. Tiền án: Có 3 tiền án: Ngày 08/3/2000, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt Lương Văn H 3 năm tù giam về tội “Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về An ninh quốc gia” và 9 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/12/2002 ; Ngày 29/12/2003, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt Lương Văn H 7 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” . Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/6/2009; Ngày 13/7/2011, Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa xử phạt Lương Văn H 8 năm 6 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/9/2018. Tạm giữ, tạm giam: 08/9/2019 tại trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Mai Văn B– VPLS B, thuộc đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Quá trình điều tra bị cáo Lương Văn H khai nhận: Ngày 06/9/2019, Lương Văn H, sinh năm 1976 đang ở nhà tại bản N, xã T, huyện M, tỉnh Thanh Hóa thì nhận được điện thoại của người đàn ông tên B (Quốc tịch Lào) là người H quen biết trước đây khi làm thuê tại Lào, đặt vấn đề thuê H vận chuyển một chuyến ma túy từ huyện Mường Lát đến Thành phố Thanh Hóa với số tiền công là 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), H đồng ý nhận lời. Người đàn ông tên B nói với H khoảng 19h00’ ngày 07/9/2019 cứ đi đến khu vực cầu cột mốc G9 (nay là cột mốc 311) thuộc địa phận bản K, xã N, huyện M thì sẽ có người đàn ông tên P đưa ma túy cho H. Đúng hẹn, khoảng khoảng 19h00’ ngày 07/9/2019 Lương Văn H một mình đi xe máy HONDA nhãn hiệu ARIBLADE màu đỏ đen biển kiểm soát 36R1-xxxx đến khu vực cầu G9. Tại đây, H gặp một người đàn ông dân tộc Mông đến hỏi tên H, giới thiệu tên là P và đưa cho H 01 túi nilon màu đen và bảo H vận chuyển số ma túy này về Bến xe khách phía Tây Thành phố Thanh Hóa sẽ có người nhận và trả tiền công cho H. Lương Văn H nhận túi nilon đựng ma túy bỏ vào cốp xe máy rồi đi về nhà chị Hà Thị L (bạn gái của H) ở Bản Lát, xã Tam Chung, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa; khoảng 23h00’ Lương Văn H đi về đến nhà chị Hà Thị L. lúc này chị L đang nấu rượu dưới bếp còn mọi người trong gia đình đã đi ngủ. Lương Văn H chào chị L rồi cầm túi nilon đựng ma túy đựng trong cốp xe máy vào phòng ngủ của chị L, tại đây Lương Văn H mở túi nilon ra kiểm tra thì thấy bên trong có 01 túi nilon màu vàng đựng ma túy đá và 01 túi nilon đựng H phiến. Lương Văn H lấy túi nilon đựng ma túy đá xuống dưới gối kê đầu, còn túi nilon đựng H phiến H giấu xuống dưới đệm ngủ. Đến khoảng 00 giờ 45 phút ngày 08/9/2019, Tổ công tác tuần tra đảm bảo An ninh trật tự Công an huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa tiến hành kiểm tra hành chính tại nhà ông Hà Văn Lằng trú tại bản Lát, xã Tam Chung, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, phát hiện bắt quả tang Lương Văn H và thu giữ toàn bộ tang vật.

Tang vật và tài sản thu giữ gồm:

- 01 túi nilon màu xanh bên trong chứa 197 viên nén màu H và 02 viên nén màu xanh;

- 01 gói nilon màu đen đựng 01 gói dạng hình hộp chữ nhật màu vàng bên trong là túi nilon màu trắng chứa các chất tinh thể màu trắng;

- 01 thẻ căn cước công dân mang tên Lương Văn H;

- 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng);

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng, loại máy OPPO A37F màu trắng vàng, IMEL1: 863090036147376, IMEL2: 863090036147368 bên trong lắp 02 sim lần lượt là: 004956xxxx và 004371xxxx, 01 sim rời để bên ngoài có số ký hiệu 0052062469;

- 01 xe máy biển kiểm soát 36R1-xxxx hãng xe HONDA, loại xe ARIBLADE màu đỏ đen, số khung: RLHJF18068, số máy: JF18E-5229451.

Kết luận giám định số 2068/PC09 ngày 11/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: 197 viên nén hình tròn màu H, 02 viên nén màu xanh và các hạt tinh thể màu trắng của hộp bìa cát tông niêm phong gửi giam định là ma túy gồm: 01 túi nilon màu đen bên trong là túi nilon màu trắng chứa các chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy đá) có tổng khối lượng 931,985gam và dưới đệm ngủ chỗ Lương Văn H nằm có 01 túi nilon màu xanh chứa 197 viên nén màu H và 02 viên nén màu xanh (nghi là H phiến) có tổng khối lượng 19,368gam. Tổng khối lượng 951,353gam là ma túy, loại: Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lương Văn H khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với những tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra và như bản cáo trạng.

Do có hành vi nêu trên, tại bản Cáo trạng số 23/Ctr – VKS – P1 ngày 12 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Lương Văn H về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b Khoản 4 Điều 250 BLHS.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo Lương Văn H về hành vi nêu trên và đề nghị HĐXX áp dụng điểm b Khoản 4, khoản 5 Điều 250 BLHS; điểm s, Khoản 1 Điều 51 BLHS; điểm h Khoản 1 Điều 52 BLHS; Điều 35; Điều 38 BLHS; Tuyên bố bị cáo Lương Minh H phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy “ ; đề nghị xử phạt bị cáo Lương Văn H tù Chung thân; Phạt tiền bị cáo 5.000.000đ đến 10.000.000đ và xử lý tang vật theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa Luật sư bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Đồng tình với cáo trạng của Viện kiểm sát về tội danh. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo là người dân tộc Thái nên nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế nên mới dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội. Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ cho bị cáo mức án phù hợp để có cơ hội cải tạo thành công dân tốt sống có ích cho xã hội.

Bị cáo nói lời sau cùng xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sớm trở về với gia đình.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra truy tố, các quyết định tố tụng, và hành vi tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan điều tra Công an tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được, phù hợp với tang vật chứng trong vụ án, đủ căn cứ và cơ sở để kết luận: Vào khoảng 00 giờ 45 phút ngày 08/9/2019, tại nhà ông Hà Văn Lằng ở bản Lát, xã Tam Chung, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa; Lương Văn H đang có hành vi cất giấu 951,353gam ma túy, loại: Methamphetamine tại phòng ngủ của chị Hà Thị L (con gái ông Lằng) với mục đích vận chuyển xuống bến xe phía Tây, Thành phố Thanh Hóa giao cho khách để nhận 20.000.000đ tiền công, thì bị Tổ công tác Công an huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Theo lời khai của Lương Văn H, nguồn gốc số ma túy bị bắt quả tang là do H nhận vận chuyển thuê cho người đàn ông tên B (Quốc tịch Lào) từ Mường Lát về bến xe phía Tây Thành phố Thanh Hóa và người đàn ông tên P, là người đã đưa ma túy cho Lương Văn H ở cầu G9 vào tối ngày 07/9/2019. Cả hai người này bị cáo đều không biết tên, địa chỉ và không nhận dạng được nên cơ quan CSĐT không có căn cứ để điều tra xác minh nên HĐXX không xét.

[3]Tổng khối lượng 951,353gam là ma túy, loại: Methamphetamine mà bị cáo Lương Văn H đã vận chuyển với mục đích vận chuyển xuống bến xe phía Tây thành phố Thanh Hóa để lấy 20.000.000đ tiền công tương đương với khối lượng chất ma túy quy định tại điểm b Khoản 4 Điều 250 BLHS 2015 về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” như Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Tính chất vụ án: Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy, và hình phạt đối với các hành vi phạm tội về ma túy rất nghiêm khắc, nhưng do động cơ vụ lợi, Lương Văn H đã trực tiếp thực hiện tội phạm tích cực đến cùng. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý ma túy của nhà nước, mà còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình chính trị, trị an xã hội, gây hoang mang trong dư luận quần chúng nhân dân.

[5] Ý Thức chủ quan và động cơ, mục đích của bị cáo Lương Văn H là vận chuyển ma túy thuê để lấy tiền công, việc bị tổ công tác Công an huyện Mường Lát phát hiện và bắt quả tang nằm ngoài ý chí chủ quan của bị cáo do đó bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.

[6]Bị cáo đủ tuổi chịu TNHS và có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 12 BLHS.

[7] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo là người dân tộc Thái, trình độ học vấn lớp 2 nên nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế. Do hám lợi muốn kiếm tiền nhanh mà không phải lao động chân chính nên đã thực hiện hành vi phạm tội mà không lường hết được hậu quả pháp lý. Tuy nhiên khối lượng ma túy bị cáo mua bán nếu trót lọt sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển giống nòi của đất nước, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho toàn xã hội. Trong khi tình hình mua bán ma túy trên địa bàn tỉnh tỉnh Thanh Hóa diễn biến ngày càng phức tạp, nhiều chiến sỹ biên phòng đã ngã xuống trên mặt trận phòng chống ma túy. Đặc biệt bị cáo đã có 03 tiền án về các tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” ; Phá hủy công trình phương tiện quan trọng về An ninh quốc gia; “ Trộm cắp tài sản” , bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục lao vào con đường phạm tội, tiếp tục tái phạm nguy hiểm về hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Do đó khi lượng hình HĐXX cũng cần có mức xử phạt thật nghiêm khắc để răn đe và phòng ngừa chung, cần cách ly bị cáo ra khởi đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ cải tạo để bị cáo trở thành công dân sống có ích cho cộng đồng và xã hội.

[8] Vật chứng: Căn cứ các Điều 47, 106 BLTTHS để xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

- Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định là tang vật vụ án nhà nước quản lý độc quyền và cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với xe máy thu giữ của Lương Văn H, hãng xe HONDA, loại xe ARIBLADE màu đỏ đen, số khung: RLHJF18068, số máy: JF18E-5229451. Kết quả tra cứu ngày 25/02/2019 của Phòng CSGT Công an tỉnh Thanh Hóa: Không tìm thấy dữ liệu tra cứu theo chỉ tiêu tìm kiếm. Đối với biển kiểm soát 36R1-xxxx qua xác minh xác định Biển kiểm soát 36R1-xxxx là của xe nhãn hiệu SPACY, số máy: 04E2020397, số máy: JF041020326, chủ xe là Lê Xuân Đ, địa chỉ 620 Q phường Đ Vệ, Thành phố Thanh Hóa. Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành xác minh tại phường Đ Vệ, Thành phố Thanh Hóa nhưng ông Lê Xuân Đ hiện nay không có tại địa phương, ông Đ chuyển đi đâu, làm gì địa phương không nắm được. Đây là chiếc xe bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội, do đó cần tịch thu xung công.

- 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng, loại máy OPPO A37F màu trắng vàng, IMEL1: 863090036147376, IMEL2: 863090036147368 bên trong lắp 02 sim lần lượt là: 004956xxxx và 004371xxxx, 01 sim rời để bên ngoài có số ký hiệu 0052062469 là tài sản thu được tại nơi khám xét nên tịch thu xung công.

- 01 thẻ căn cước công dân mang tên Lương Văn H là giấy tờ tùy thân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

[9] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ vào các điều: điểm b Khoản 4; 5 Điều 250 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS; Điều 35; Điều 39 BLHS;

Điều 47 BLHS, Điều 106; Điều 136 BLTTHS; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội về án phí lệ phí Tòa án.

2. Tuyên bố: Lương Văn H phạm tội “ Vận chuyển trái phép chất ma túy

3. Xử phạt: Lương Văn H Chung thân. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam: 08/9/2019.

- Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo xung quỹ nhà nước.

4. Về tang vật:

- Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định là vật nhà nước cấm lưu hành.

- Tịch thu sung công:

+ Xe máy thu giữ của Lương Văn H, hãng xe HONDA, loại xe ARIBLADE màu đỏ đen, số khung: RLHJF18068, số máy: JF18E-5229451. BKS + 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng);

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng, loại máy OPPO A37F màu trắng vàng, IMEL1: 863090036147376, IMEL2: 863090036147368 bên trong lắp 02 sim lần lượt là: 004956xxxx và 004371xxxx, 01 sim rời để bên ngoài có số ký hiệu 0052062469.

Trả lại: 01 thẻ căn cước công dân mang tên Lương Văn H nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

Các vật chứng hiện đang tạm giữ tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 75/2020/TV-CTHADS ngày 19 tháng 5 năm 2020 giữa Phòng PC 04 Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Thanh Hóa và Cục thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa.

5. Án phí: Bị cáo Lương Văn H phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo Lương Văn H, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 70/2020/HS-ST

Số hiệu:70/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về