Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 667/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO CAO TẠI THÀNH PHỐ H CHÍ MINH

BẢN ÁN 667/2023/HS-PT NGÀY 14/09/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong các ngày 07 và 14 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 719/2022/TLPT-HS ngày 07 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo Đỗ Hồng P và các bị cáo khác. Do có kháng cáo của bị cáo Đỗ Hồng P, Nguyễn Thanh T đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 378/2022/HS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị:

1. Đỗ Hồng P; giới tính: nam; sinh năm 1972 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi đăng ký thường trú: Tổ dân phố B, phường P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú trước khi bị bắt: Căn hộ 418, Khối F, Lô N, Chung cư 17,3ha (chung cư B), phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; họ tên cha không rõ; họ tên mẹ: Đỗ Thị T1 (đã chết); vợ đã ly hôn tên Nguyễn Thị B (sinh năm 1973); vợ hiện tại Nguyễn Thị P1 (sinh năm 1973); có 02 con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 2009;

Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 06/6/2006, bị Tòa án nhân dân quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy”. Đã chấp hành xong bản án vào ngày 20/8/2007.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 29 tháng 4 năm 2021 (có mặt).

2. Nguyễn Thanh T; giới tính: nam; sinh năm 1992 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi đăng ký thường trú: Tổ dân phố B, phường P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú trước khi bị bắt: Căn hộ 603, Nhà F, Lô N, chung cư B, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; con ông Nguyễn Khắc C và bà Đỗ Thị T2; vợ tên Đặng Thị Thu V (sinh năm 1990); có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2014.

Tiền án, tiền sự: không.

Tạm giữ: 29/4/2021; Hủy bỏ quyết định tạm giữ: 07/5/2021; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25 tháng 11 năm 2021 (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Đ Hng P: Ông Đô Hải B1, là luật sư của Văn phòng L1 thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh T:

1. Ông Đoàn Trọng N, là Luật sư của Văn phòng luật sư Đoàn Trọng N thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt).

2. Bà Lê Nguyễn Quỳnh T3 là Luật sư của Văn phòng L2 thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 06 giờ 00 phút ngày 29/4/2021, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (C04) chủ trì phối hợp với các lực lượng chức năng làm nhiệm vụ tại trước sân Nhà F, Lô N chung cư B (chung cư 17,3ha), phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện Đỗ Hồng P và Nguyễn Thanh T đang xách 03 thùng sơn cho vào cốp sau xe ô-tô Honda City biển kiểm soát 51A-861.XX. Tổ công tác đà tiến hành kiểm tra 02 thùng sơn do P đang xách và 01 thùng sơn do T đang xách thì phát hiện bên trong có các chất bột màu trắng và các viên nén màu xanh, P khai là H và “Kẹo ma túy”. Tổ công tác đã đưa P, T cùng vật chứng về Công an phường A, thành phố T để làm rõ và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Khi tiến hành kiểm tra cụ thể các thùng sơn thu giữ, kết quả ghi nhận như sau:

Thùng số 1, là thùng sơn nhãn hiệu TL PAINT, trên nắp thùng có viết chữ “Vợ 09841003xx ” và hai dấu “*”. Bên trong thùng, phía trên chứa một lớp sơn nước màu trắng dày khoảng 05cm, được ngăn với phần phía dưới bằng một tấm đáy nhựa được dán kín bằng keo silicon vào thành thùng, phía dưới tấm nhựa có tổng cộng 20 bánh chất bột màu trắng hình hộp chữ nhật kích thước khoảng 15,5x10x2,5(cm), có tổng khối lượng 7.077,3g là ma túy loại Heroine (khi giám định được đánh ký hiệu từ M 1.1 đến M1.7).

Thùng số 2, thùng sơn nhãn hiệu TL PAINT, trên nắp thùng viết chữ “Vợ 09841003xx ”. Bên trong thùng, phía trên chứa một lớp sơn nước màu trắng dày khoảng 10cm được ngăn với phần phía dưới bằng một tấm đáy nhựa được dán kín băng keo silicon vào thành thùng, phía dưới tấm nhựa có: 05 túi nylon trong suốt kích thước khoảng 32x20cm (khi giám định được đánh ký hiệu từ M2.1 đến M2.5), bên trong mỗi túi có 03 túi nylon kích thước khoảng 12x18cm đều chứa viên nén hình tấm khiên màu xanh, có tổng khối lượng 5.376,6g là ma túy loại MDMA.

Thùng số 3, thùng sơn nhãn hiệu TL PAINT, trên nắp thùng viết chữ “Vợ 09841003xx ”. Bên trong thùng, ở phía trên chứa một lớp sơn nước màu trắng dày khoảng 10cm được ngăn với phía dưới bằng một tấm đáy nhựa được dán kín bằng keo silicon, phía dưới tấm nhựa có 05 túi nylon trong suốt kích thước khoảng 32x20cm (khi giám định được đánh ký hiệu từ M3.1 đến M3.5), bên trong mỗi túi có 03 túi nylon kích thước khoảng 12x18cm đều chứa viên nén hình tấm khiên màu xanh, có tổng khối lượng 5.418,3g là ma túy loại MDMA.

Lực lượng công an tiến hành thu giữ khối lượng ma túy đã nêu và thu giữ một số vật chứng liên quan như sau:

- 03 vỏ thùng sơn bằng nhựa ghi nhãn hiệu “TL PAINT”, - 01 xe ô-tô Honda City 51A-861.XX;

- 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe ô-tô số 1783XX của xe ô-tô Honda City 51A- 861.XX;

- 01 điện thoại di động Iphone, số imei 359172070414XX, sim số 09042611XX, đã qua sử dụng (thu của P);

- 01 điện thoại di động Iphone màu đen, sim số 07070739XX, đã qua sử dụng (thu của P);

- 01 điện thoại di động Itel màu đen, số imei 3551491135711XX, sim số 09013481XX, đã qua sử dụng (thu của P);

- 01 thẻ ATM Ngân hàng V3, số 97043668106985920XX mang tên DO HONG P - 01 điện thoại di động Oppo màu xanh, sim số 08650769xx, đã qua sử dụng và sim số 07070739xx (thu của T);

- 01 điện thoại di động Oppo màu xanh, sim số 08994579xx, đã qua sử dụng (thu của Trà);

Căn cứ tài liệu, chúng cứ thu thập được, vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 29/4/2021, Cơ quan điều tra ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của P tại phòng 418 chung cư B, Nhà F, Lô N, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, phát hiện thu giữ:

- Trên trần thạch cao của nhà vệ sinh bên trái từ cửa chính đi vào (nhà vệ sinh số 1) phát hiện thu giữ 14 bánh hình hộp chữ nhật (được đánh số từ 1-14), bên trong chứa chất bột màu trắng có tổng khối lượng 4.931,9g là Heroine.

- Trên trần thạch cao nhà vệ sinh trong phòng ngủ của P phát hiện thu giữ được:

+ 07 gói nylon lớn (bên trong chứa tổng cộng 20 gói nhỏ) đều đựng viên nén màu xanh hình tấm khiên, được đánh số thứ tự từ 18-24 (ký hiệu từ M5.1 đến M) là ma túy, có tổng khối lượng là 7.070,7g loại MDMA;

+ 03 gói nylon lớn (trong có 09 gói nhỏ) đều đựng viên nén màu cam hình trái tim, được đánh số thứ tự từ 15-17 (ký hiệu M5.8 đến M5.10) là ma túy, có tổng khối lượng 3.162,6g loại MDMA;

+ 03 gói nylon lớn đều đựng chất bột màu vàng, được đánh số từ 26-28 (ký hiệu từ M5.11 đến M5.13) là ma túy, tổng khối lượng 2.938,3g loại Methamphetamine, N1;

+ 01 gói nylon màu vàng trong đựng 183 gói nhỏ màu xanh nhãn Iris chứa chất bột màu cam nhạt được đánh số thứ tự 25 (ký hiệu M5.14) là ma túy, tổng khối lượng là 183g loại MDMA, Methamphetamine, Ketamine.

Khối lượng ma túy, loại chất ma túy như đã nêu ở phần trên được xác định theo Kết luận giám định số 2566/C09B ngày 27/5/2021 của Phân viện Khoa học hình sự Bộ c 1 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của T tại phòng 603, Chung cư B, Nhà F, Lô N, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ 01 thẻ ATM ngân hàng V3 của T, ngoài ra không phát hiện thu giữ gì khác.

Vào lúc 12 giờ 30 phút ngày 29/4/2021, Cơ quan công an thu giữ của P: 01 xe Honda SH Mode mang biển số 59V2-801.xx.

Vào lúc 12 giờ 40 phút ngày 29/4/2021, Cơ quan công an thu giữ của Trà:

- 01 xe Honda Lead mang biển so 59U8-80xx;

- 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô-tô số 0285xx mang tên Nguyễn Thị Mai O; địa chỉ: E N, phường A, quận G;

- 01 giấy bán xe đề ngày 29/12/2020, Cửa hàng xe máy Ngọc H1 bán cho P xe Honda Lead mang biển số 59U8-80xx.

Theo kết quả điều tra ban đầu, P khai rằng P được Lê Hân V1 thuê vận chuyển số ma túy đã nêu trên; T khai rằng T là người được P và V1 thuê làm lái xe, T không biết P vận chuyển ma túy cho V1. Ngoài lời khai của T, không có chứng cứ gì khác nên theo đề nghị của Cơ quan điều tra, ngày 07/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 4) đã Quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ, đồng thời trả tự do cho T.

Ngày 07/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ C1 ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 35/QĐ-CSMT-P8; đồng thời ra Quyết định khởi tố bị can đối với P về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ được một số vết đường vân trên các túi nylon đựng ma túy đã thu giữ. Căn cứ Kết luận giám định số 2566-1/C09B ngày 15/6/2021 và Công văn số 259/C09B ngày 30/3/2022 của Phân viện Khoa học hình sự - Bộ C1 tại Thành phố Hồ Chí Minh thì:

- Tại các túi nylon ký hiệu 5.1, 5.3, 5.4, 5.5, 5.8, 5.10 phát hiện 10 dấu vết đường vân đều do vân ngón tay của T để lại (2 dấu ngón cái trái, 1 dấu ngón trỏ phải, 1 dấu ngón cái phải, 3 dấu ngón trỏ trái, 1 dấu ngón nhẫn phải, 1 dấu ngón giữa phải, 1 dấu ngón nhẫn trái).

- Trên túi nylon mang ký hiệu 2.2 phát hiện 02 dấu vết đường vân tay ngón giữa bàn tay phải và đường vân ngón nhẫn bàn tay phải của T.

Căn cứ tài liệu chứng cứ thu thập được, ngày 12/10/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ C1 đã khởi tố bị can, ra Lệnh bắt tạm giam đối với T về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Theo lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và các tài liệu thu giữ, xác định được như sau:

Bị cáo P và Lê Hân V1 là bà con họ hàng xa. Trước tết Nguyên đán 2021, V1 thuê P vào Thành phố Hồ Chí Minh phụ bán hải sản ven Quốc lộ E, huyện B, làm được khoảng một tháng thì do bị thua lỗ nên không làm nữa. Sau đó, V1 bảo P thuê chung cư cho V1 để ở chung và kiếm việc làm. P thuê căn hộ D Chung cư B (chung cư 17,3ha), phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (Căn hộ D). V1 bảo P tìm mua ô-tô và để P đứng tên đăng ký. Ngày 22/02/2021, P đã đến một ga-ra xe trên đường Quốc Hương (thành phố T) mua chiếc ô-tô Honda City biển số 51A-861.XX với giá 380.000.000đ của anh Trần Lê Minh T4. V1 chỉ đạo P tìm thuê người lái xe và thuê nhà cho lái xe ở riêng. Do vậy, P đã thuê T (em bạn dì với P) làm lái xe và thuê căn hộ 603 chung cư B, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (Căn hộ F) cho T ở. V1 trả tiền lương cho P và T đồng thời trả các chi phí khác như tiền thuê nhà, ăn uống...

Đầu tháng 3/2021, V1 bảo P đi xách hàng lậu cho V1 và trả cho P tiền công 45.000.000đ/tháng. Trong tháng 3/2021, có một lần V1 yêu cầu P đi gửi hàng cho V1 ở bến xe H, Quốc lộ A, thành phố T. Hàng đã được V1 đóng gói sẵn nên P không biết cụ thể là hàng gì, chỉ biết là hàng lậu, tên người gửi, người nhận đều là giả. Sau đó, V1 có nói cho P biết công việc thật sự là đi giao ma túy. Lúc đó, P đang nợ V1 250.000.000đ, mặt khác V1 trả tiền công cao nên P tiếp tục làm. Trà làm lái xe cho P. Đến khoảng giữa tháng 4/2021 thì T biết P vận chuyển hàng cấm nhưng chưa rõ loại hàng gì nên vẫn tiếp tục làm cho P.

Khoảng 10 giờ ngày 27/4/2021, khi V1 và P đang ở nhà số D thì V1 đưa cho P 01 chiếc điện thoại iPhone 8 và nói với P rằng sẽ có người tên K Lắk chỉ đạo qua điện thoại bảo làm gì thì cứ làm theo. V1 nói cho P biết ma túy được V1 cất giấu trên trần của hai nhà vệ sinh trong Căn hộ 418. Sau đó, V1 đến Sân bay T để đi công chuyện, P gọi cho T, bảo T lái xe ô-tô Honda City biển số 51A-861.XX cùng P đưa V1 đến sân bay T.

Từ chiều 27/4/2021 đến ngày 28/4/2021, Ki L nhiều lần liên lạc với P qua ứng dụng Viber được cài đặt sẵn trên điện thoại iPhone mà V1 đã đưa cho P; số Viber mà Ki L sử dụng là +85577206371. Ki L bảo P chuẩn bị nhận hàng và dặn P mua hai thùng sơn để đóng gói ma túy, đồng thời bảo P nhắn số điện thoại của P (số sim rác) cho Ki L. P nhắn số điện thoại 09013481XX cho Ki L. Chiều 28/4/2021, P đưa cho T 1.000.000đ nhờ T đi mua hai thùng sơn nước màu trắng, 02 nắp thùng sơn, keo silicon và súng bắn keo silicon. Trà đi đến cửa hàng bán vật liệu xây dựng trên đường L, thành phố T mua hai thùng sơn nước hiệu TL PAINT màu trắng loại 18 lít mang về để trước Căn hộ 418. Những thứ còn lại thì T quên mua.

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 28/4/2021, P ngủ dậy thì thấy điện thoại của P (sử dụng số thuê bao 09013481XX) có cuộc gọi nhờ từ số máy 0877295744. P gọi lại thì gặp một người đàn ông, người này bảo P đi nhận valy “quà” và dặn khi gặp nhau thì tự lấy valy ở cốp sau xe ô-tô. P hiểu là đi lấy ma túy. Người đàn ông vừa nêu và P thống nhất hẹn gặp nhau trong khoảng thời gian từ 16 đến 17 giờ ở trước khu vực Lô D (chung cư T), Đường số G, thành phố T. Sau đó, P đi xe Honda SH mode biển số 59V2-801.xx đến điểm hẹn và đứng chờ. Một lúc sau, P thấy một chiếc xe ô-tô loại 4 chỗ màu trắng (dạng taxi công nghệ) đi đến đậu ở điểm hẹn, cốp xe phía sau được mở ra. P đi đến gần lấy chiếc valy màu đen trong cốp xe ô-tô và đặt lên xe máy của P. Lúc này, P thấy trong xe ô-tô có một người lái xe và một người đàn ông ngồi ở ghế phụ, cả hai đều mang khẩu trang nên không rõ đặc điểm. P mang valy chứa ma túy về cất giấu tại Căn hộ 418.

Khoảng 20 giờ ngày 28/4/2021, thông qua ứng dụng Viber, Ki L liên lạc với P; P báo cho Ki L biết là đã nhận được valy chứa ma túy. Ki L hướng dẫn P mở khóa valy với mã số “000” và nói rằng bên trong valy có 20 bịch lớn, mỗi bịch chứa 3 túi nhỏ là “kẹo ma túy”. Ki L bảo P chuẩn bị mang đi giao 10 bịch lớn và 20 bánh “vàng” (tức Heroine), P hỏi đóng gói thế nào thì Ki L nói đóng vào thùng sơn 2 đáy, lớp dưới giấu ma túy, lớp trên đồ sơn nước lên. P hỏi miếng vàng (tức 20 bánh Heroine) thì lấy ở đâu. Ki Lắk trả lời là đã giao cho V1 rồi, cứ hỏi V1 thì sẽ biết. Lúc này, P nhớ lại rằng, vào ngày 27/4/2021, trước khi đi, V1 dặn P là H giấu trên trần nhà vệ sinh của Căn hộ 418. Khi đóng gói ma túy vào 02 thùng sơn, do không đủ chỗ chứa nên P nhờ T đi mua thêm 01 thùng sơn, 01 nắp thùng sơn; đồng thời, P dặn T mua những đồ còn thiếu gồm keo silicon, súng bắn keo silicon và 02 nắp thùng sơn. Trà đi mua những thứ vừa nêu và lên Phòng 418 giao cho P, T chứng kiến P mở valy màu đen và thấy bên trong có nhiều túi nylon chứa viên nén màu xanh và màu cam. Theo yêu cầu của P, T giúp P kiểm đếm các gói ma túy. Ngoài ra, T nhìn thấy trên giường có nhiều túi nylon có kích thước cỡ ba ngón tay, trên bàn trang điểm thì có nhiều bánh hình hộp chữ nhật. Lúc này, T biết đó là hàng cấm mà lâu nay P vận chuyển. Trà hỏi P đó là gì, P không nói mà bảo T quay về nhà. Đồng thời, P bảo T sáng hôm sau đi sớm. Sau đó, P mang 03 thùng sơn vào nhà vệ sinh đổ hết sơn nước ra chậu thau, rửa sạch thùng, rồi dùng một chiếc kéo cắt nắp thùng tròn đều để tạo đáy thứ hai. Khi đã chuẩn bị xong, P lần lượt cho ma túy vào 03 vỏ thùng sơn rồi gắn đáy giả vào, dùng keo silicon liên kết lại và đợi cho khô. Sau đó, P đổ một lớp sơn nước lên phần đáy giả, rồi đậy nắp thùng sơn lại như mới. Trong đó, thùng 1 chứa 20 bánh Heroine (P lấy trên trần nhà vệ sinh bỏ vào); thùng 2 và thùng 3, mỗi thùng chứa 5 túi lớn chứa các viên nén màu xanh (P lấy từ trong valy bỏ vào). Tiếp theo đó, P gọi V2 báo cho Ki L biết. Ki L bảo P làm dấu, bằng cách ghi lên nắp thùng sơn chữ “Vợ” và một số điện thoại bất kỳ, thùng chứa Heroine thì ký hiệu thêm 02 dấu (**). Do đó, P dùng bút lông viết lên trên nắp thùng chữ “Vợ” và số điện thoại “0984100330”; riêng thùng chứa Heroine thì thêm vào dấu (**). Số ma túy còn lại trong valy (10 túi lớn), P cất giấu trên trần nhà vệ sinh trong phòng ngủ của P.

Khoảng gần 06 giờ sáng ngày 29/4/2021, Ki L nhắn tin qua V2 cho P số điện thoại của người nhận hàng và yêu cầu P giao ma túy cho người đó vào lúc 09 giờ cùng ngày, P lần lượt mang 03 thùng sơn chứa ma túy từ phòng 418 xuống tầng trệt chung cư B. Lúc này, T đã xuống sân chuẩn bị sẵn xe ô-tô nên T xách phụ P 02 thùng, P tự xách 01 thùng cùng để vào cốp sau xe ô-tô Honda City biển số 51A-861.XX thì bị bắt quả tang như đã nêu ở phần trên.

Căn cứ vật chứng thu giữ, kết luận giám định, các tài liệu chứng cứ thu thập và lời khai của các bị cáo, có đủ cơ sở để kết luận:

P đã có hành vi vận chuyển trái phép: 12.009,2g Heroine; 21.028,2g MDMA; 2.938,3g Methamphetamine, Nimetazepam; 183g MDMA, Methamphetamine, Ketamine.

Trà là người đã giúp sức cho P vận chuyển 7.077,3g heroine và 21.028,2g MDMA trong số ma túy đã vừa nêu, bao gồm toàn bộ số ma túy thu giữ khi bị bắt quả tang và một số gói ma túy thu giừ trên trần thạch cao nhà vệ sinh trong phòng ngủ của P mà qua giám định phát hiện có dấu vân tay của T hiện diện, gồm: 7.070,7g loại MDMA; 3.162,6g loại MDMA Đôi với Lê Hân V1: V1 bỏ đi khỏi nơi cư trú, không rõ đi đâu. Theo kết quả giám định không phát hiện được dấu vân tay của V1 trên các gói ma túy, mặt khác, chỉ có lời khai của P nên chưa đủ căn cứ vững chắc để khởi tố đối với V1. Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ C1 chuyển tài liệu cho lực lượng trinh sát lập án đấu tranh.

Đối với Ki L: Là người không rõ nhân thân lai lịch, sử dụng ứng dụng Viber liên kết với số điện thoại +855772063XX. Cơ quan điều tra đã làm văn bản gửi Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra - Bộ C1, để đề nghị Bộ C1 có văn bản đề nghị Cơ quan chức năng Campuchia xác minh làm rõ về K. Tuy nhiên, đến nay chưa có kết quả. Cơ quan điều tra đã chuyển tài liệu cho lực Lượng trinh sát Bộ C1 lập án đấu tranh.

Đối với hai người đàn ông đi trên ô-tô đến giao valy chứa ma túy cho P: Là những người không rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ C1 không có căn cứ để điều tra làm rõ.

Kết quả xác minh đối với vật chứng và tài sản thu giữ:

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Sở T5, cơ quan quản lý đất đai nơi các bị can đăng ký cư trú và một số ngân hàng, xác định được như sau: Đỗ Hồng P là chủ sử dụng thửa đất 116, tờ bản đồ số 8, diện tích 646m2, địa chỉ tại phường P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi. Ngoài ra, P và T không đứng tên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản nào khác gắn liền với đất và cũng không có tiền gửi tại các ngân hàng Cơ quan Cảnh sát điều tra (C04) Bộ C1 đã ra Lệnh kê biên tài sản số 62/LKB-CSMT ngày 05/10/2021, kê biên Quyền sử dụng đất thửa đất vừa nêu. Ngày 19/10/2021, thực hiện theo sự ủy thác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ C1, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Q đã tiến hành kê biên quyền sử dụng thửa đất đã nêu và giao cho bà Nguyễn Thị P1 (vợ bị cáo P) quản lý.

Tại bản Cáo trạng số 1843/CT-VKSTC-V4 ngày 20/5/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã truy tố các bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự).

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 378/2022/HS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:

Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 4 Điều 329, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 238 Bộ luật Dân sự 2015.

1. Xử phạt bị cáo Đỗ Hồng P tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, phạt bổ sung 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, phạt bổ sung 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề liên quan án phí, các biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, tài sản kê biên và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 24 tháng 8 năm 2022, bị cáo Đỗ Hồng P làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo tử hình là quá nặng, xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 24 tháng 8 năm 2022, bị cáo Nguyễn Thanh T làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Bị cáo cho rằng không có giúp sức cho P trong việc vận chuyển ma túy. Bị cáo chỉ là người được thuê để lái xe cho P và hoàn toàn không biết việc P vận chuyển ma túy.

Tại phiên tòa phúc thm:

- Tại phiên tòa ngày 10/3/2023, bị cáo P thừa nhận hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã quy kết. Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được sống, được cải tạo để sớm về đoàn tụ với gia đình.

Bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội, khai ra sự thật số ma túy và cho ở của đối tượng Lê Hân V1. Trước đây bị cáo không biết sự khoan hồng của pháp luật nên không khai nhằm bao che cho đồng bọn. Thật sự trước khi bị bắt, bị cáo có chở P đến gặp V1 để nhận thùng trái cây, khi lấy trái cây ra thì thấy có số ma túy, bị cáo không biết là gì nên có hỏi thì V1 bảo từ từ sẽ biết.

Luật sư bào chữa cho bị cáo P cho rằng bản án quy kết bị cáo vận chuyển ma túy, vậy vận chuyển cho ai. Khi bắt quả tang thì bị cáo đang giấu ma túy trong xe, khi khám xét thì phát hiện số ma túy được cất giấu trong phòng 418. Như vậy, bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chứ không phải vận chuyển trái phép chất ma túy nên đề nghị chuyển tội danh để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo T cho rằng án sơ thẩm xác định bị cáo không thành khẩn khai báo nên tuyên mức án cao nhất cho bị cáo; nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có ông ngoại, mẹ, cậu ruột là người có công với cách mạng, bị cáo chỉ là đồng phạm giúp sức, ma túy đã được ngăn chặn kịp thời nên xem đây là tình tiết mới để xem xét cho bị cáo con đường sống để tái hòa nhập cộng đồng.

- Tại phiên tòa ngày 07/9/2023 bị cáo P cho rằng bị cáo không biết bị cáo vận chuyển ma túy, chỉ biết làm theo lệnh của Lê Hân V1 và Ki L. Đen khi bị bắt bị cáo mới biết đó là ma túy. Còn T chỉ làm theo yêu cầu của bị cáo, T không biết và cũng không đụng vào các gói hàng mà bị cáo đi giao.

Bị cáo T khai rằng bị cáo có mua thùng sơn giúp P để các gói chứa hàng vào thùng sơn và ngụy trang như cáo trạng mô tả. Quá trình giúp P thì bị cáo có làm rớt và rách một gói làm rơi ra những viên màu cam, xanh. Bị cáo chỉ biết đó là hàng cấm nhưng không biết đó là ma túy. Trong quá trình chờ xét xử phúc thẩm, bị cáo có làm đơn gởi điều tra viên khai rổ địa chỉ, số điện thoại, chỉ rõ nơi ở của Lê Hân V1 và sẵn sàng nhận dạng Vi theo yêu cầu của điều tra viên nhằm lập thành tích để chuộc tội cho bản thân; ngoài ra gia đình bị cáo có nhiều người thân có công với cách mạng nên đề nghị xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo P cho rằng cơ quan điều tra đều xác định hai bị cáo đều làm theo chỉ đạo của ai đó có thể là Lê Hân V1, Ki L nên chỉ là người giúp sức. Vì vậy cần có thời gian để điều tra làm rõ người cầm đầu, tổ chức đường dây ma túy này. Nấu bắt được Lê Hân V1 thì mức án sẽ được xem xét cho hai bị cáo nhẹ hơn V1. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tội danh vận chuyển trái phép chất ma túy là không đúng vì 18,2kg ma túy được che giấu dùm cho ai đó nên hành vi các bị cáo là tàng trữ; thời điểm bắt quả tang các bị cáo đang cất giấu tại xe nên toàn bộ số ma túy bắt giữ và khám xét đều là hành vi tàng trữ mới đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.

Luật sư bào chữa cho bị cáo T cho rằng bị cáo đã khai rõ địa chỉ, số điện thoại, chỉ rõ nơi ở của Lê Hân V1 là đối tượng chủ mưu cầm đầu; gia đình bị cáo có nhiều người thân có công với cách mạng; bị cáo chỉ là người giúp sức có vai trò mờ nhạt vì vậy cần làm rõ và bát đối tượng cầm đầu mới giải quyết triệt để vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để có thời gian thu thập chứng cứ bắt người chủ mưu của vụ án.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, những người tham gia phiên tòa cũng đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định.

Về nội dung: Hồ sơ vụ án chỉ thể hiện lời khai các bị cáo về đối tượng Lê Hân V1 nên chưa thể truy tìm được nên tách ra để xử lý tiếp tục. Tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo T có lời khai về V1 nên cần kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ vai trò của V1. Vụ án này các bị cáo đang có hành vi vận chuyển nên truy tố xét xử các bị cáo về tội vận chuyển trái phép chất ma túy là đúng nên không cần thiết hủy bản án sơ thẩm. Xét thấy các bị cáo vận chuyển số lượng ma túy quá lớn đến 36kg các loại nên không thể giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo được. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục kháng cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 24 tháng 8 năm 2023 các bị cáo Đỗ Hồng P, Nguyễn Thanh T có làm đơn kháng cáo. Xét đơn kháng cáo của các bị cáo làm và nộp trong thời hạn luật định nên được xét xử theo thủ tục phúc thẩm theo quy định tại các Điều 331, Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo:

[2.1] Đối với bị cáo Đỗ Hồng P bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của Bản cáo trạng đã truy tố và bản án sơ thẩm đã quy kết, trình bày của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thể hiện như sau:

Vì động cơ vụ lợi, Đỗ Hồng P đã có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy cho người khác. Vào khoảng 06 giờ ngày 29/4/2021, P mang ma túy từ Căn hộ 418, Nhà F, Lô N, chung cư B, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh xuống sảnh của chung cư và cùng T mang để vào cốp xe ô tô biên kiểm soát 51A-861.XX để mang đi giao cho người khác thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang. Lực lượng chức năng đã thu tại chỗ 7.077,3g Heroine và 10.794,9g MDMA được các bị cáo ngụy trang cất giấu trong 03 thùng sơn nước.

Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 29/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra khám xét nơi ở của P tại Căn hộ D, Nhà F, Lô N, chung cư B, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, thì tiếp tục thu giữ được trên trần của nhà vệ sinh có: 14 bánh Heroine có tổng khối lượng là 4.931,9g; 10.233,3g MDMA; 2.938,3g Methamphetamine và N1; 183g loại MDMA, Methamphetamine và Ketamine. Trong số ma túy vừa nêu có 7.070,7g MDMA (đựng trong 07 gói nylon lớn, bên trong chứa tổng cộng 20 gói nhỏ) và 3.162,6g loại MDMA (đựng trong 03 gói nylon lớn, bên trong chứa tổng cộng 09 gói nylon nhỏ) thu được tại nơi ở của P nhưng có hiện diện dấu vân tay của T trên một số các gói nylon chứa ma túy.

[2.2] Đối với bị cáo Nguyễn Thanh T: Khi bị bắt quả tang cùng với P và trong giai đoạn điều tra ban đầu, T khai rằng không biết gì về việc P vận chuyển ma túy, T chỉ là người lái xe cho P. Tại biên bản hỏi cung bị can ngày 25/11/2021, khi được điều tra viên hỏi có bao giờ bị cáo lên phòng 418 (phòng của P) không thì T khai rằng giữa tháng 4/2021 bị cáo có đến phòng 418 để lấy dứa về ăn; T khai rằng T không cầm, nắm hay sắp xếp đồ đạc gì trong phòng 418; khi bị bắt quả tang cũng là lần đầu tiên Trà nhìn các bánh Heroine và các viên nén ma túy cất giấu trong các thùng sơn nước. Tuy nhiên, khi được điều tra viên thông báo có các dấu vân tay của T trên các gói nylon chứa ma túy thì T lại khai ràng T có tham gia vào việc kiểm đếm các gói ma túy theo yêu cầu của P nhưng lúc đó T chỉ biết là hàng cấm và P làm chuyện phạm pháp, T không biết là ma túy. Tại phiên tòa sơ thẩm, khi nghe P khai và khẳng định ràng T không có đụng vào các gói ma túy thì T lại khai rằng Trà có cầm các gói ma túy lên xem trong lúc P đi vào nhà vệ sinh nên P không thấy. Diễn biến việc T khai như đã nêu cho thấy T luôn thay đổi lời khai, tìm cách chống chế, đối phó với cơ quan điều tra để phủ nhận việc biết các gói hàng vận chuyển là ma túy.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 10 và 17 tháng 3 năm 2023, bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội, khai ra sự thật số ma túy và chỗ ở của đối tượng Lê Hân V1. Trước đây, bị cáo khai rằng do không biết sự khoan hồng của pháp luật nên không khai nhằm bao che cho đồng bọn. Thật sự trước khi bị bắt, bị cáo có chở P đến gặp V1 để nhận thùng trái cây, khi lấy trái cây ra thì thấy có số ma túy, bị cáo không biết là gì nên có hỏi thì V1 bảo từ từ sẽ biết. Bị cáo T còn khai rằng bị cáo có mua thùng sơn giúp P để các gói chứa hàng vào thùng sơn và ngụy trang như cáo trạng mô tả. Quá trình giúp P thì bị cáo có làm rớt và rách một gói làm rơi ra những viên màu cam, xanh. Bị cáo chỉ biết đó là hàng cấm nhưng không biết đó là ma túy. Trong quá trình chờ xét xử phúc thẩm, bị cáo có làm đơn gởi điều tra viên khai rõ địa chỉ, số điện thoại, chỉ rõ nơi ở của Lê Hân V1 và sẵn sàng nhận dạng Vi theo yêu cầu của điều tra viên nhằm lập thành tích để chuộc tội cho bản thân.

Trên cơ sở lời khai của các bị cáo, các chứng cứ có trong hồ sơ, việc bắt người phạm tội quả tang. Hội đồng xét xử có căn cứ xác định: Trong thực tế, T đã giúp P đi mua vật dụng để ngụy trang che giấu ma túy và cùng với P mang các thùng chứa ma túy lên xe ô tô để đi giao cho người khác; có dấu vân tay của T trên các gói nylon chứa ma túy... vì vậy T là đồng phạm cùng với P vận chuyển ma túy theo yêu cầu của Lê Hân V1 và Ki L. Mặt khác, nếu Trà biết P vận chuyển hàng cấm nhưng T vẫn giúp P thực hiện và không quan tâm là hàng gì, bất chấp hậu quả thì T cũng phải chịu trách nhiệm cùng với P trên cơ sở xác định hàng cấm đã vận chuyển là ma túy.

[2.3] Bị cáo Đỗ Hồng P khai nhận đà từng nhận ma túy từ hai người đàn ông không rõ lai lịch giao cho đem về cất giữ và được Lê Hân V1 chỉ cho V1 cất giấu ma túy tại trần nhà vệ sinh phòng 418. Sau đó được V1 và Ki L chỉ đạo khi được yêu cầu của hai đối tượng này sẽ mang ma túy ngụy trang trong thùng nước sơn đem xuống xe ô tô và đi giao cho người khác, P và T đã bị bắt quả tang cùng vật chứng thu giữ tại xe ô tô khi chuẩn bị vận chuyển đi nơi khác, cùng với đó P cũng thừa nhận V1 chỉ cho P nơi cất giấu ma túy và theo yêu cầu của V1 hoặc Ki Lắk thì sẽ vận chuyển số ma túy còn lại đó. Như vậy có căn cứ xác định số ma túy bị bắt quả tang và số ma túy thu giữ khi khám xét phòng của P đều sẽ được P vận chuyển giao cho người khác. Hành vi này của các bị cáo là hành vi vận chuyển chứ không phải hành vi tàng trữ như các luật sư đã tranh luận.

[2.4] Từ nhận định, phân tích hành vi của các bị cáo như trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của các bị cáo Đỗ Hồng p, Nguyễn Thanh T đà đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 250 của Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Đỗ Hồng P, Nguyễn Thanh T theo điểm h khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, xâm phạm nghiêm trọng đến hoạt động của Nhà nước trong việc quản lý và kiểm soát các chất ma túy, vì thế cần thiết phải xử lý nghiêm để răn đe giáo dục các bị cáo đồng thời làm gương cho người khác.

[2.5] Đối với Lê Hân V1, Ki L và hai người đàn ông đi trên xe ô tô đến giao ma túy cho P: Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã có nêu rõ, Lê Hân V1 đã bỏ địa phương đi đâu không rõ, lực lượng trinh sát đang truy tìm; Ki Lắk không rõ nhân thân lai lịch, chỉ có số điện thoại trên ứng dụng Viber; hai người đàn ông giao ma túy cho P chưa xác định nhân thân lai lịch. Những đối tượng này cơ quan cảnh sát điều tra Bộ C1 đã chuyển tài liệu cho lực lượng trinh sát đang lập án đấu tranh, khi nào bắt được sẽ xử lý sau. Mặt khác, các bị cáo P và T bị truy tố xét xử về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, đã có lời khai trong hồ sơ nên việc truy tìm các đối tượng nêu trên không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, nên không có căn cứ hủy bản án sơ thẩm chờ bắt được đối tượng cầm đầu, chủ mưu để xử lý chung trong cùng một vụ án như các luật sư đề nghị trong phần tranh luận.

[2.6] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đỗ Hồng P và Nguyễn Thanh T với lý do: Các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội, đã thật sự ăn năn hối cải; đã có khai báo chi tiết chỗ ở, nhân thân, số điện thoại của đối tượng Lê Hân V1 nhằm lập công chuộc tội; gia đình các bị cáo có người thân có công với cách mạng. Xét thấy những tình tiết giảm nhẹ này cấp sơ thẩm đã có xem xét và áp dụng hình phạt đối với các bị cáo là tương xứng. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử ghi nhận những công lao mà gia đình các bị cáo đã đóng góp cho cách mạng, nhưng việc làm của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm, số lượng ma túy vận chuyển là đặc biệt lớn nên cần áp dụng mức hình phạt cao nhất mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng mà không thể giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo được. Các bị cáo kháng cáo nhưng cũng không cung cấp được chứng cứ gì đặc biệt mới nên không có cơ sở chấp nhận.

[3] Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Các phần nội dung khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.

Bởi các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đỗ Hồng P và Nguyên Thanh T về việc xin giảm nhẹ hình phạt.

Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số 378/2022/HS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên bố: Các bị cáo Đỗ Hồng P và Nguyễn Thanh T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; căn cứ khoản 4 Điều 329, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 238 của Bộ luật Dân sự 2015.

1. Xử phạt bị cáo Đỗ Hồng P tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, phạt bổ sung 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, phạt bổ sung 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Trong thời hạn 07 (bảy) ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, các bị cáo Đỗ Hồng P và Nguyễn Thanh T được gửi đơn lên Chủ tịch N2 để xin ân giảm án tử hình.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đỗ Hồng P và Nguyễn Thanh T phải chịu mỗi người là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

4. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 667/2023/HS-PT

Số hiệu:667/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về