Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 21/2024/HS-PT NGÀY 15/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 4 năm 2024, tại phòng xét xử hình sự Tòa án nhân dân tỉnh Q, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 23/2024/HS- PT ngày 05 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo Nguyễn Đức H, do có kháng cáo của bị cáo này đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2024/HS-ST ngày 24 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Q.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Đức H, sinh ngày 16 tháng 9 năm 1992 tại huyện L, tỉnh Q; nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đức H (đã chết) và bà Lê Thị B; có vợ là Đinh Thị Thanh H và 02 người con, con lớn sinh năm 2021, con nhỏ sinh năm 2023; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 30/9/2023 sau đó chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q cho đến nay; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 29/9/2023, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an huyện L phối hợp với Công an xã X tuần tra, kiểm soát tại địa bàn xã X, huyện L, tỉnh Q, khi đến đoạn đường thuộc địa phận thôn P, xã X, phát hiện Nguyễn Đức H đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại JUPITER, màu sơn đỏ đen mang BKS 73H1 - xxxxx có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành dừng xe, kiểm tra, phát hiện bên trong tay trái của H đang cầm 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa 06 viên nén màu hồng, dạng thuốc tân dược, trên mỗi mặt mỗi viên nén đều có ký hiệu chữ “WY”. H khai nhận 06 viên nén nêu trên là ma túy loại hồng phiến, H mua về nhằm mục đích sử dụng, tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ niêm phong tang vật.

Cơ quan cảnh sát điều tra đã tạm giữ 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa 06 viên nén màu hồng có khối lượng 0,507g ma túy loại Methamphetamine, (sau giám định còn lại 0,403g Methamphetamine và vỏ bao gói); 01 xe mô tô YAMAHA JUPITER BKS 73H1- xxxxx; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme 3, màu đen, bên trong lắp sim thuê bao số 033818xxxxx; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu trắng, bên trong lắp sim thuê bao số 079367xxxxx.

Ngày 24/10/2023, Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô YAMAHA JUPITER biển kiểm soát 73H1- xxxxx cho anh Nguyễn Ngọc O và ngày 21/11/2023 trả lại điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu trắng, bên trong lắp sim thuê bao số 079367xxxxx cho anh Nguyễn Nhật T là chủ sở hữu.

Theo Kết luận giám định số 954/KL - KTHS ngày 06/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q: 06 viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu hồng, trên mỗi mặt của mỗi viên nén có đều in chữ “WY”, mà cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine có tổng khối lượng 0,507g (không phẩy năm trăm linh bảy gam). Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, số thứ tự 247, Danh mục IIC, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Cáo trạng số: 02/CT-VKSNDLT ngày 13/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H từ 15 đến 18 tháng tù.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2024/HS-ST ngày 24 tháng 01 năm 2024, Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Q đã xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 18 (Mười tám) tháng tù. Ngoài ra bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 31/01/2024, bị cáo Nguyễn Đức H có đơn kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2024/HS-ST ngày 24 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Q xin được giảm mức hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Đức H thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo cho rằng mức án mà Toà án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là quá cao.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q phát biểu quan điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức H, sửa Bản án hình sự sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 12 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình, tái hoà nhập xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Đức H khai nhận, vào ngày 29/9/2023, tại thôn P, xã X, huyện L, tỉnh Q, Nguyễn Đức H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,507g ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo với tội danh, khung hình phạt như cáo trạng đã truy tố là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[2]. Xét yêu cầu kháng cáo xin giảm mức hình phạt của bị cáo Nguyễn Đức H, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo là người đã trưởng thành, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có đủ khả năng để nhận thức được các chất ma túy là loại gây nghiện nguy hiểm, là mặt hàng mà Nhà nước độc quyền quản lý để nhằm ngăn chặn tình trạng lạm dụng ma túy, bảo vệ sức khỏe của người dân và ngăn ngừa các tội phạm cũng như tệ nạn liên quan đến ma túy. Nhưng, do không chịu rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà thích ăn chơi, đua đòi, sa vào tệ nạn ma tuý dẫn đến bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo bị Toà án cấp sơ thẩm xử phạt với mức án 18 tháng tù là nghiêm khắc, đủ tác dụng giáo dục, răn đe. Tuy nhiên, tại phiên toà phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm tình tiết mới đã tích cực tham gia cứu trợ trong và sau đợt lũ lụt lịch sử năm 2020 tại huyện L có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã T. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới ở giai đoạn xét xử phúc thẩm được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần xem xét áp dụng cho bị cáo. Mặt khác bị cáo từ trước đến nay có quá trình nhân thân tốt; gia đình khó khăn do các con còn nhỏ dại. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị của Đại diện Việm kiểm sát để giảm cho bị cáo một phần hình phạt cho bị cáo, nhằm thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận, bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức H; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2024/HS-ST ngày 24 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Q như sau:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: phạt bị cáo Nguyễn Đức H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 30/9/2023.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đức H không phải chịu án phí phúc thẩm do kháng cáo được chấp nhận.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2024/HS-PT

Số hiệu:21/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về