Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 15/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ TỘI VẬN CHYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11/01/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 635/2020/HSST ngày 21 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 6340/2020/QĐXXST-HS, ngày 15/12/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 8672/2020/HSST-QĐ, ngày 29/12/2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Kim A; Sinh ngày 24 tháng 4 năm 1976, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: 9/7 ấp HL, xã BĐ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị E; Có chồng là Đào Công C và 02 con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 1999; Tiền án: không;

Tiền sự: Bị Công an huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi ‘Đánh bạc”, theo Quyết định xử phạt hành chính về an ninh trật tự - an toàn xã hội số 575/QĐ-XPHC ngày 21/11/2006. Bị cáo chưa thi hành.

Nhân thân: Bị Tòa án nhân dân quận huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh xử 08 năm tù về hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, theo Bản án số 161/2012/HSST ngày 31/7/2012. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù từ tháng 3/2017.

Tạm giam: Từ ngày 02/6/2020, có mặt.

Người bào chữa: Bà Lê Nguyễn Quỳnh Thi - Luật sư của Văn phòng Luật sư Quỳnh Thi, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Kim A, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 02/6/2020, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 12 phối hợp Công an phường Tân Hưng Thuận, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang Nguyễn Thị Kim A tại sảnh của khách sạn Thành Công, số 258 Trường Anh, khu phố 6, phường Tân Hưng Thuận, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, trên tay A cầm 01 hộp giấy, bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu. Qua giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 88,8983g, loại Methamphetamine.

Đến 17 giờ 30 phút ngày 03/6/2020, Cơ quan Công an đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thị Kim A tại nhà số 9/7 ấp Hậu Lân, xã Bà Điểm, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ:

+ 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,3181g, loại Methamphetamine;

+ 01 gói nylon bên trong có 06 viên nén hình tròn màu cam, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,1075g, loại Nimetazepam;

+ 01 cân điện tử.

Tất cả ma túy thu giữ trong vụ án đã được giám định, kết quả thể hiện tại Bản Kết luận giám định số 941/KLGĐ-H ngày 12/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Bản Cáo trạng số 541/CTr-VKS-P1, ngày 06/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Kim A về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 3 Điều 250 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị Kim A khai nhận khối lượng ma túy bị bắt quả tang vào ngày 02/6/2020 tại sảnh khách sạn Thành Công, số 258 Trường Anh, khu phố 6, phường Tân Hưng Thuận, Quận 12 là của người có tên Hoàng thuê bị cáo mang đến khách sạn giao cho người có tên Hưng, còn khối lượng các chất ma túy mà Cơ quan Công an thu giữ tại nơi ở của bị cáo là của bạn bị cáo cho và bị cáo mua để sử dụng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ quyền công tố luận tội: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận đã thực hiện những hành vi như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát mô tả. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thị Kim A về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 250 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo từ 17 năm tù đến 18 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và phạt bổ sung 10.000.000 đồng; xử phạt bị cáo từ 05 năm tù đến 06 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về vật chứng, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử lý theo luật định.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Kim A thống nhất bị cáo phạm các tội như Viện kiểm sát truy tố. Song hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” quá nặng so với hành vi của bị cáo, bỡi lẽ bị cáo chỉ là người đồng phạm với vai trò giúp sức cho Hoàng và bị cáo cũng chưa nhận được tiền công, vả lại bị cáo không mở gói hàng ra xem nên không biết là chất gì; Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt cho bị cáo thấp hơn mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị và miễn hình phạt bổ sung. Về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thì Cơ quan Điều tra chưa giám định hàm lượng chất ma túy, loại Nimetazepam,tuy nhiên cũng không cần phải trả hồ sơ cho Viện kiểm sát khắc phục mà đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có một tiền án nhưng đã được xóa án tích, hiện nay đang bị cáo đang ở nhà tình nghĩa và thờ cúng Liệt sĩ Nguyễn Thành Tài là chú ruột của bị cáo, nên đề nghị áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Viện kiểm sát tranh luận: Về tình tiết bị cáo đang thờ cúng Liệt sĩ thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét; Về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thì với 5,3181g chất ma túy, loại Methamphetamine thu giữ của bị cáo đã đủ trọng lượng định khung hình phạt theo khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 rồi, nên Luật sư đề nghị áp dụng khoản 1 Điều này cho bị cáo là không phù hợp. Việc bị cáo chưa giao được ma túy và chưa nhận được tiền công là nằm ngoài ý muốn của bị cáo. Bị cáo từng bị xét xử về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, bị cáo nhận lời đi giao hàng ở địa điểm rất gần, nhưng lại được hưởng tiền công 1.000.000 đồng nên bị cáo phải biết rất rõ đó là ma túy.

Bị cáo không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát và trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, phù hợp vật chứng và những chứng cứ khác được cơ quan điều tra thu thập, có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ căn cứ để xác định: 88,8983g chất ma túy, loại Methamphetamine thu giữ khi bắt quả tang là bị cáo vận chuyển thuê cho người có tên Hoàng; Còn 5,3181g chất ma túy, loại Methamphetamine và 1,1075g chất ma túy, loại Nimetazepam mà cơ quan điều tra thu giữ khi khám xét tại nhà trọ là của bị cáo được người khác cho và và mua về cất giữ để sử dụng. Hành của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được qui định tại theo điểm b khoản 3 Điều 250 và điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa Luật sư bào chữa cho bị cáo yêu cầu áp dụng khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 vì bị cáo là người ở nhà tình nghĩa và thờ cúng Liệt sĩ Nguyễn Thành Tài là chú ruột của bị cáo. Tuy nhiên qua kiểm tra tài liệu mà Luật sư cung cấp thì căn nhà tại địa chỉ 9/7 ấp Hậu Lân, xã Bà Điểm, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh là của Sở nhà đất Thành phố Hồ Chí Minh tặng cho bà Nguyễn Thị Hòa để thờ cúng Liệt sĩ Nguyễn Thành Tài. Do đó không có căn cứ để Tòa áp dụng tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo. Tại cơ quan và tại phiên tòa bị cáo xác định dù không mở gói hàng ra xem, nhưng biết gói hàng mà người tên Hoàng thuê bị cáo mang đến khách sạn Thành Công giao cho người khác là chất ma túy, do đó luận cứ bào chữa của Luật sư cho rằng bị cáo không biết chất gì bên trong là chưa chính xác.

[4] Về áp dụng hình phạt: Xét bị cáo đã từng bị Tòa án xử phạt 08 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” nên nhận thức được hành vi mua bán, tang trử, vận chuyển trái phép chất ma túy là rất nguy hiểm cho xã hội, nó không những xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất gây nghiện, mà còn là một hiểm họa của xã hội; bị cáo cũng biết rõ pháp luật xử phạt rất nghiêm khắc đối với những ai phạm vào các tội có liên quan đến chất ma túy. Nhận thức được vậy nhưng vì thiếu ý thức rèn luyện để trở thành người công dân tốt sau khi ra tù và vì động cơ tư lợi bất chính nên vừa chấp hành xong Bản án thì bị cáo tiếp tục phạm tội Vận chuyển và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và tính chất, mức độ phạm tội lần này còn nghiêm trọng hơn lần trước. Điều này chứng tỏ bị cáo là người khó cảm hóa, giáo dục, do đó hình phạt áp dụng cho bị cáo phải nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 250 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, cấm đảm nhiện chức vụ, cấm hành nghề…..” Bị cáo đã phạm vào tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” nay lại phạm vào tội này nên cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền và mức phạt như Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[6] Nhận định trên cũng là lập luận để chấp nhận toàn bộ ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát và một phần luận cứ bào chữa của Luật sư.

[7] Về vật chứng của vụ án:

- 02 gói ma túy còn lại sau giám định được niêm phong, ghi vụ 941/2020 (gói 1, gói 2), bên ngoài có chữ ký giám định viên Võ Anh Tuấn, cán bộ điều tra Nguyễn Khắc Anh; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy dùng để sử dụng ma túy, 01 ống hút cắt xéo 01 đầu, 01 cây kéo, 01 Aếc muỗng màu đen dùng phân Aa ma túy để sử dụng. Các vật chứng trên có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và không có giá trị nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại hiệu Redmi bị cáo dùng để liên lạc cá nhân đã bị hư, bị cáo không yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Vsmart mà bị cáo dùng để liên lạc nhận vận chuyển trái phép chất ma túy, 01 cân tiểu ly điện tử dùng để phân Aa ma túy, hiện còn giá trị sử dụng nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt Nguyễn Thị Kim A 17 (Mười bảy) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Phạt bổ sung 10.000.000 (Mười triệu) đồng, để sung vào ngân sách Nhà nước.

Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt Nguyễn Thị Kim A 05 (Năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Nguyễn Thị Kim A phải chấp hành một hình phạt chung của 2 tội là 22 (Hai mươi hai) năm tù và phạt bổ sung 10.000.000 (Mười triệu) đồng. Thời hạn tù tính từ ngày 02/6/2020.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước các vật chứng sau:

- 01 điện thoại di động hiệu Vsmart (đã bị vỡ màn hình). Mã số: DT2/032BB/2021.

- 01 cân tiểu ly điện tử. Mã số: CAN/032BB/2021. Tuyên tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- 01 điện thoại di động hiệu Redmi. Mã số: DT1/032BB/2021.

- 02 gói ma túy còn lại sau giám định được niêm phong, ghi vụ 941/2020 (gói 1, gói 2), có chữ ký của giám định viên Võ Anh Tuấn, cán bộ điều tra Nguyễn Khắc Anh. Mã số: NP/032BB/2021.

- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Mã số: DC/032BB/2021.

- 01 ống hút cắt xéo một đầu, 01 cây kéo, 01 Aếc muỗng màu đen. Mã số: LT/032BB/2021.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2021/032, ngày 04/11/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

Về án phí:

Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn Thị Kim A phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 11/01/2021). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

346
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 15/2021/HS-ST

Số hiệu:15/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về