Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 91/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 91/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 131/2021/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Huỳnh Văn T, sinh năm 1989, tại Đồng Nai; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: 449 Tổ M, khu phố B, ấp 2, xã A, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1967 và bà Huỳnh Thị C, sinh năm 1970 (cả hai còn sống); anh chị em ruột có 02 người em lớn nhất 1992, nhỏ nhất sinh năm 2000; Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Ánh T sinh năm 1993 có 02 con lớn nhất 2012, nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/01/2021 đến ngày 30/8/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh, bị cáo có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Bà Trần Hồng Ph, sinh năm 1986. Địa chỉ: 185/1 khu phố M, phường B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt);

2/ Bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1981.Địa chỉ: Ấp 6, xã X, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt);

Người chứng kiến:

1/Ông Phạm Hoài Ph, sinh năm 1999. Địa chỉ: Ô 6, Khu B, thị trấn H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (vắng mặt).

2/Huỳnh Hoài L, sinh năm 1995. Địa chỉ: ấp Gò Cao, thị trấn H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ ngày 28/01/2021, Huỳnh Văn T đang ở nhà trọ tại xã P, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thì có Ph không rõ họ tên, địa chỉ điện thoại kêu T đi vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu từ huyện Đức Huệ, tỉnh Long An về thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giao cho đầu mối tiêu thụ, tiền công vận chuyển mỗi chuyến là 1.000.000 đồng, T đồng ý. Ph điều khiển một xe ô tô biển số 60A-731.96 đến nhà trọ của T rồi giao xe này cùng với số tiền 1.000.000 đồng (tiền công vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu). T nhận xe sau đó điều khiển xe đến khu vực xã M, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An gặp một người đàn ông không rõ họ tên, địa chỉ dẫn đường vào nơi nhận thuốc lá điếu nhập lậu. Lúc này khoảng 14 giờ cùng ngày, T đậu xe khoảng 2 phút có khoảng 4-5 xe mô tô không rõ người điều khiển và biển số chở thuốc lá điếu nhập lậu đến chất lên xe ô tô biển số 60A-731.96 cho T, T không kiểm tra số lượng thuốc lá điếu nhập lậu, đồng thời có một người đàn ông không rõ họ tên, địa chỉ đến tháo biển số 60A- 731.96 ra thay biển số 51G-901.86 vào xe. T điều khiển xe ô tô biển số 51G- 901.86 chở thuốc lá điếu nhập lậu đi về hướng thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Đến khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, T điều khiển xe ô tô khi đến Ô 4, khu A, thị trấn H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An thì bị lực lượng Công an huyện Đức Hòa bắt quả tang, tạm giữ vật chứng gồm:

- 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, loại xe COROLLA ALTIS 5 chỗ ngồi, màu trắng, số khung: RL4BU3HEXK7525349, số máy: 2ZRX690260, biển số 60A-731.96.

- 8500 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm: 4500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu HERO và 4000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6, có gắn sim số 0901550309.

- Số tiền 4.000.000 đồng.

- 02 biển số 51G-901.86 (biển trước, sau).

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hoà, tỉnh Long An đã gửi mẫu cây thuốc lá nhãn hiệu Jet, Hero (20 bao) đã thu giữ đến Hiệp hội thuốc lá Việt Nam để xác định nguồn gốc, xuất xứ. Tại Công văn số 31/CV- 2021HHTLVN ngày 02/2/2021 của Hiệp hội thuốc lá Việt Nam xác định:

“1- 2 mẫu cây thuốc lá (20 bao) có nhãn hiệu có nhãn hiệu Jet và Hero do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hoà, tỉnh Long An cung cấp là thuốc lá điếu nhập lậu. …” Qua điều tra xác định biển số xe ô tô 51G-901.86 được cấp cho xe ô tô nhãn hiệu Mazda, số loại FREMACY, số khung CP10P2MH001240, số máy FP940883, do bà Nguyễn Thị Nga, sinh năm: 1981, hộ khẩu thường trú: 53A ấp S, xã X, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh làm chủ sở hữu, hiện tại bà Nga đang sử dụng xe ô tô này và không bị mất biển số 51G-901.86.

Cơ quan điều tra đã giám định và xác định xe ô tô biển số 60A-731.96, số khung: RL4BU3HEXK7525349, số máy: 2ZRX690260 là tài sản hợp pháp của bà Trần Hồng Ph1, sinh năm: 1986, hộ khẩu thường trú: 185/1 khu phố M, phường B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, đầu tháng 01/2021 bà Ph1 cho một người tên Ph không rõ họ tên, địa chỉ thuê xe ô tô nói trên với hình thức thuê hằng ngày và không thực hiện hợp đồng bằng văn bản. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hòa đã trả lại xe này cho bà Ph1 vào ngày 10/6/2021.

Đối với những vật chứng đã thu giữ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa đã chuyển đến Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An quản lý.

Tại bản cáo trạng số 131/CT-VKSĐH ngày 31 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An truy tố bị cáo Huỳnh Văn T về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Văn T hoàn toàn nhìn nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố, không đưa ra chứng cứ nào minh oan chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trần Hồng Ph1 trình bày bà có cho một người tên Ph không rõ nhân thân lai lịch thuê một chiếc xe ô tô biển số 60A-731.96, số khung: RL4BU3HEXK7525349, số máy: 2ZRX690260 để chạy dịch vụ, bà không biết gì về việc Huỳnh Văn T sử dụng chiếc xe này chở thuốc lá ngoại nhập lậu. Bà đã nhận lại được chiếc xe này xong và không có yêu cầu tranh chấp gì trong vụ án này.

Bà Nguyễn Thị Ng trình bày có sở hữu một xe ô tô biển số 51G-901.86 nhãn hiệu Mazda, số loại FREMACY, số khung CP10P2MH001240, số máy FP940883 xe bà vẫn đang sử dụng không mất biển số.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An phát biểu:

Lời khai nhận tội của bị cáo Huỳnh Văn T phù hợp với lời khai của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp các chứng cứ khác thu thập được trong quá trình điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở xác định do muốn kiếm tiền tiêu xài cá nhân nên khoảng 14 giờ ngày 28/01/2021, Huỳnh Văn T đã thực hiện hành vi điều khiển xe ô tô biển số 51G-901.86 vận chuyển 8.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu cho một người đàn ông tên Ph (không rõ họ tên, địa chỉ), từ khu vực xã M, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An đến khu vực thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tiêu thụ với tiền công 1.000.000 đồng. Đến khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, T vận chuyển số thuốc lá điếu nhập lậu trên đến Ô 4, khu A, thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hoà, tỉnh Long An thì bị bắt giữ, T đã nhận tiền công vận chuyển là 1.000.000 đồng.

Hành vi của Huỳnh Văn T là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa Ph1 nên cần phải xử lý bằng pháp luật hình sự.

Công an phát hiện bắt quả tang tạm giữ người cùng vật chứng vụ án. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố bị cáo Huỳnh Văn T theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Huỳnh Văn T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải nên đề nghị xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) cho bị cáo.

Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”, xử phạt bị cáo Huỳnh Văn T mức hình phạt từ 05 năm đến 05 năm 6 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Đối với 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, loại xe COROLLA ALTIS 5 chỗ ngồi, màu trắng, số khung: RL4BU3HEXK7525349, số máy: 2ZRX690260, biển số 60A-731.96 là tài sản hợp pháp của bà Trần Hồng Ph1 cho Ph thuê chạy dịch vụ, Ph1 không biết Ph sử dụng xe vận chuyển thuốc lá nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hòa hoàn trả cho bà Ph1 xong vào ngày 10/6/2021, bà Ph1 không có yêu cầu gì nên không đề cập xem xét;

-Đối với 8500 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm: 4500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu HERO và 4000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet do nước ngoài sản xuất không có chứng từ, hóa đơn, xuất xứ hàng hóa, không xác định được chủ sở hữu nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 02 biển số 51G – 901.86 (biển trước và sau) nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động iphone 6, sim điện thoại số 0901550309 của Huỳnh Văn T sử dụng vào việc phạm tội nên cần tích thu tiêu hủy sim số 0901550309, tịch thu bán sung công quỹ điện thoại di dộng iphone 6.

- Số tiền tạm giữ của Huỳnh Văn T là 4.000.000 đồng. Tịch thu sung công quỹ 1.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính, hoàn trả cho Huỳnh Văn T 3.000.000 đồng.

Đối với người đàn ông tên Ph thuê T vận chuyển 8.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu không rõ nhân thân lai lịch chỉ có lời khai của T nên không có cơ sở xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hòa, Điều tra viên, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về nội dung:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Hồng Ph1 và Nguyễn Thị Ng trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, kết luận tại công văn số 31/CV-2021 HHTLVN ngày 02/02/2021 của Hiệp hội thuốc lá Việt Nam và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ căn cứ xác định:

Khoảng 14 giờ ngày 28/01/2021, Huỳnh Văn T đã thực hiện hành vi điều khiển xe ô tô biển số 51 G – 901.86 vận chuyển 8.500 bao thuốc lá điếu nhập cho một người đàn ông tên Ph (không rõ địa chỉ) từ khu vực xã M, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đến khu vực thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tiêu thụ với tiền công 1.000.000 đồng. Đến 16 giờ 15 phút cùng ngày T vận chuyển số thuốc lá điếu nhập lậu đến Ô 4, Khu A, thị trấn H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang. Tại cơ quan điều tra Huỳnh Văn T khai rõ hành vi phạm tội.

Hành vi của bị cáo Huỳnh Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố bị cáo Huỳnh Văn T theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

Hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này đã xâm hại trực tiếp đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cấm, nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội và việc quản lý kinh tế tại địa phương.

Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của bị cáo gây ra là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi trái pháp luật của bị cáo cần xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự; do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3]. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo Huỳnh Văn T thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, ăn năn hối cải. Do đó, xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) cho bị cáo. Tuy nhiên cũng cần cách ly bị cáo với xã hội một thời gian để giáo dục và phòng ngừa chung.

Từ phân tích trên, xét theo lời đề nghị của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 5 năm đến 5 năm 6 tháng tù là phù hợp nhằm để giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, loại xe COROLLA ALTIS 5 chỗ ngồi, màu trắng, số khung: RL4BU3HEXK7525349, số máy: 2ZRX690260, biển số 60A-731.96 là tài sản hợp pháp của bà Trần Hồng Ph1 cho Ph thuê chạy dịch vụ, Ph1 không biết Ph sử dụng xe vận chuyển thuốc lá nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hòa hoàn trả cho bà Ph1 xong vào ngày 10/6/2021, bà Ph1 không có yêu cầu gì nên không đề cập xem xét;

-Đối với 8500 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm: 4500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu HERO và 4000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet do nước ngoài sản xuất không có chứng từ, hóa đơn, xuất xứ hàng hóa, không xác định được chủ sở hữu nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 02 biển số 51G – 901.86 (biển trước và sau) nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động iphone 6, sim điện thoại số 0901550309 của Huỳnh Văn T sử dụng vào việc phạm tội nên cần tích thu tiêu hủy sim số 0901550309, tịch thu bán sung công quỹ điện thoại di dộng iphone 6.

- Số tiền tạm giữ của Huỳnh Văn T là 4.000.000 đồng. Tịch thu sung công quỹ 1.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính, hoàn trả cho Huỳnh Văn T 3.000.000 đồng.

[6]. Đối với người đàn ông tên Ph thuê T vận chuyển 8.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu không rõ nhân thân lai lịch chỉ có lời khai của T nên không có cơ sở xử lý.

[7]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Huỳnh Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn T 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/01/2021 đến ngày 30/8/2021).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Đối với 8500 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm: 4500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu HERO và 4000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet do nước ngoài sản xuất không có chứng từ, hóa đơn, xuất xứ hàng hóa, không xác định được chủ sở hữu nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 02 biển số 51G – 901.86 (biển trước và sau) nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động iphone 6, sim điện thoại số 0901550309 của Huỳnh Văn T sử dụng vào việc phạm tội nên cần tích thu tiêu hủy sim số 0901550309, tịch thu bán sung công quỹ điện thoại di dộng iphone 6.

- Số tiền tạm giữ của Huỳnh Văn T là 4.000.000 đồng. Tịch thu sung công quỹ 1.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính, hoàn trả cho Huỳnh Văn T 3.000.000 đồng.

(Tang vật, tài sản nêu trên hiện do Chi cục thi hành án huyện Đức Hòa tạm giữ theo biên bản ngày 31/8/2021) 3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Huỳnh Văn T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào Ngân sách Nhà nước.

4. Án xử sơ thẩm công khai. Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 91/2021/HS-ST

Số hiệu:91/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về