Bản án về tội trộm cắp tài sản và cướp giật tài sản số 133/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 133/2022/HS-PT NGÀY 28/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 100/2022/TLPT-HS ngày 28 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo Phạm Thị Ngọc B, Phạm Duy T do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 115/2022/HS-ST ngày 17 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Thị Ngọc B, sinh năm 1993 tại Q, Bình Định; nơi ĐKNKTT: Tổ x, khu phố y, phường N, TP. Q, tỉnh Bình Định; chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đức C, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1971; chồng: Huỳnh Duy Đ, sinh năm 1990, có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Có mặt.

2. Phạm Duy T, sinh năm 2002 tại Q, Bình Định; nơi cư trú: Thôn B, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đức C, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1971; sống như vợ chồng với chị Đinh Nữ Trịnh T, sinh năm 2001, có 01 người con sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam từ ngày 22/9/2021 cho đến nay; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cuối năm 2020, Phạm Thị Ngọc B vay tiền để xây nhà dẫn đến thiếu nợ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác để trả nợ. B rủ em ruột là Phạm Duy T cùng thực hiện hành vi phạm tội với mình thì T đồng ý và cả hai bàn bạc thống nhất cách thức, thủ đoạn để chiếm đoạt cho được tài sản. Từ tháng 02/2021 đến cuối tháng 05/2021, B và T đã thực hiện các lần trộm cắp tài sản và cướp giật tài sản của người khác như sau:

Lần thứ 1: Vào cuối tháng 02/2021, Phạm Thị Ngọc B rủ em ruột Phạm Duy T chở nhau xuống Q dạo tìm xe đạp trẻ em để sơ hở thì đến lấy trộm, T đồng ý. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày cuối tháng 02/2021, T điều khiển xe môtô hiệu Honda Future, màu nâu vàng, mang biển số 77L1 - 596.81 (do B làm chủ sở hữu) chở B đi vào thành phố Q dạo tìm thì thấy một chiếc xe đạp trẻ em màu đỏ - trắng, dựng trên vỉa hè trước nhà vvv Nguyễn Trung T, phường Nguyễn Văn C, thành phố Q và không có người trông coi nên B bảo T dừng xe để B đến lấy trộm xe đạp. T chạy xe máy đến dừng gần chỗ xe đạp thì B xuống xe dùng tay nhấc xe đạp lên mang đi. Khi B ôm xe đạp chuẩn bị ngồi lên xe máy để T chở đi thì có 01 người đàn ông (chưa rõ lai lịch) ở gần đó phát hiện tri hô “trộm, trộm” nên B thả xe đạp xuống đường rồi lên xe cho T chở chạy thoát.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Q đưa T và B đến xác định hiện trường, kiểm tra xung quanh và thông báo tìm người bị hại nhưng đến nay vẫn không xác định được lai lịch người bị hại cũng như không xác định được đặc điểm, nhãn hiệu của xe đạp mà T, B chiếm đoạt nên không có căn cứ để định giá tài sản.

Lần thứ 2: Khoảng 08 giờ 00 ngày 08/5/2021, Phạm Duy T điều khiển xe môtô hiệu Honda Vision, màu đen, mang biển số 77B1 - 038.57 (do chị Đinh Nữ Trinh T đứng tên chủ sở hữu) chở B vào nội thành Q tìm tài sản chiếm đoạt. Khi T chở B đi ngang qua quán nước mía của chị Hoàng Thị Kim T ở đường T thuộc Tổ 9, KV8, phường N, thành phố Q thì thấy trong quán vắng người nên B bảo T vào quán chị T lấy tài sản, T đồng ý. B bảo T chở B đến Cây xăng nn để B xuống xe đứng chờ rồi hướng dẫn T quay lại quán nước mía của chị T giả vờ hỏi mua nước mía để tìm cách vào nhà lấy tài sản. T chạy xe đến quán quan sát thấy trong quán chỉ có chị T và con trai chị T (5 tuổi) đang chơi trên vỉa hè còn trong nhà không có ai. T giả vờ bảo chị T bán ly nước mía rồi xin đi nhờ nhà vệ sinh. Chị T chỉ T đi vào nhà vệ sinh phía trong nhà. T vào trong thấy phòng ngủ con chị T mở trống cửa, trên bàn gỗ cạnh cửa ra vào có để 01 chiếc điện thoại Samsung J3, màu vàng đồng nên đến lấy trộm điện thoại bọc vào túi quần rồi quay ra trả tiền ly nước mía và lấy xe máy rời đi. Sau đó, T quay lại Cây xăng nn nói cho B biết lấy được 01 chiếc điện thoại di động rồi chở B đến tiệm điện thoại M Mobile - đ Xuân Thủy, phường Q, thành phố Q để bán điện thoại. T vào bán điện thoại trộm được cho anh Phạm Minh T (Chủ tiệm) với giá 200.000 đồng rồi đưa cho B giữ, tiêu xài.

Ngày 05/8/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Quy Nhơn kết luận: 01 (Một) điện thoại di động Samsung J3, màu vàng đồng, đã qua sử dụng, giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 300.000 đồng.

Lần thứ 3: Khoảng 13 giờ 00 ngày 20/5/2021, Phạm Duy T tiếp tục điều khiển xe môtô mang biển số 77B1 - 038.57 chở B vào thành phố Q tìm tài sản chiếm đoạt. Trên đường đi, B nói cho T biết quán cà phê C của chị Nguyễn Thị Ái N ở hh Mai Hắc Đế, phường G, thành phố Q buổi trưa và đầu giờ chiều mở cửa nhưng không có người trông coi rồi bảo T chở đến quán C lấy trộm tài sản. T chở B đến dừng xe trước quán quan sát thấy không có người nên cùng B đi vào trong lấy tài sản. Lúc này, chị Nguyễn Thị Ái N nghỉ trưa ở phòng sau. B đến đứng trước quầy thu ngân cảnh giới rồi bảo T vào trong quầy lục tìm tài sản. T kéo hộc bàn thu ngân ra lục lấy được số tiền 1.500.000 đồng. T đưa tiền cho B giữ rồi ra lấy xe chở B đi xuống bãi biển phía đường An Dương Vương kiểm đếm lại số tiền vừa trộm được. B cất giữ số tiền này để trả nợ.

Lần thứ 4: Khoảng 07 giờ 30 ngày 24/5/2021, Phạm Duy T điều khiển xe môtô mang biển số 77B1 - 038.57 chở B đi vào trung tâm thành phố Q tìm tài sản để chiếm đoạt. T và B đã chở nhau đi tìm và phát hiện nhà của vợ chồng chị Lâm Thị T ở jj Lý Thái T, phường Q, thành phố Q không có người lớn ở nhà mà chỉ có con trai chị T là Huỳnh Bảo L (Sinh năm: 2013) ở nhà trông nhà nên B bảo T vào nhà chị T lấy tài sản. Tiếp đó, B bảo T chở B đến Siêu thị BigC để Bích đứng chờ.

Khoảng 08 giờ 25 phút cùng ngày, T chạy xe máy đến dựng trước nhà, nhìn vào trong thấy có một mình cháu Huỳnh Bảo L đang ngồi xem tivi ở phòng khách. T nói dối T là bạn của mẹ L nên Long cho T vào phòng khách ngồi chơi. Lợi dụng lúc L mải mê xem tivi không để ý, T liền đi lên lầu, vào phòng ngủ của vợ chồng chị T mở tủ quần áo lục tìm tài sản thì thấy số tiền 12.000.000 đồng cất bên dưới ngăn đựng quần áo. T lấy tiền bọc vào túi quần rồi quay xuống lấy xe máy rời đi. Sau đó, T quay lại Siêu thị BigC đón B rồi cả hai đến quá cafe S đường Tây Sơn kiểm đếm số tiền trộm được. B đưa cho T 50.000 đồng đổ xăng, còn lại 11.950.000 đồng B cất giữ trả nợ.

Lần thứ 5: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 26/5/2021, Phạm Duy T điều khiển xe môtô mang biển số 77B1 - 038.57 chở B đi tìm tài sản để chiếm đoạt thì phát hiện nhà của vợ chồng chị Đào Thị Minh H ở sss Nguyễn Thái H, phường Q, thành phố Q không có người lớn ở nhà mà chỉ có con trai chị H là Nguyễn Tấn K (Sinh năm: 2012) ở nhà trông nhà nên B và T bàn bạc, chọn nhà chị H vào lấy tài sản. B bảo T chở B đến quán cafe M ở đường T để B xuống đứng chờ còn T quay lại nhà chị H để tìm cách lấy tài sản. T chạy xe đến dựng trước nhà chị H, nhìn vào trong nhà thấy cháu Nguyễn Tấn K và Nguyễn Quốc An K (sinh năm: 2013; hàng xóm của K) đang ngồi chơi ở phòng khách. T nói dối với K “Chú đến sửa cửa cho ba mẹ” nên K cho T vào nhà. T lên lầu, vào phòng ngủ của vợ chồng chị H lục tìm tài sản thì thấy số tiền 8.500.000 đồng của chị H cất trong bao lì xì để trong hộc bàn gỗ nên lấy bọc vào người rồi quay xuống lấy xe rời đi. Sau đó, T quay lại quán cafe M đón B rồi cả hai đến quán cafe S ở đường T kiểm đếm tiền vừa trộm được. B đưa cho T 50.000 đồng đổ xăng, còn lại 8.450.000 đồng B giữ để trả nợ.

Lần thứ 6: Vào khoảng 07 giờ 30 phút một ngày giữa tháng 5/2021, Phạm Duy T điều khiển xe môtô mang biển số 77B1 - 038.57 chở B đi vào thành phố Q tìm cách chiếm đoạt tài sản kiếm tiền trả nợ. Khi T chở B chạy ngang qua nhà anh Nguyễn Đức T ở C Hoàng Văn T, phường N, thành phố Q thì thấy cửa nhà mở trống, trong nhà không có người lớn mà chỉ có cháu Ngô Ngọc Bảo N (Sinh ngày:

13/11/2008; con anh Nguyễn Đức T) và Lê Trịnh Thảo N (Sinh ngày: 11/8/2009 con anh Lê Tuấn T là hàng xóm với N) đang ngồi xem ti vi ở phòng khách, trên bàn có để một điện thoại di động hiệu Oppo A15s màu xanh dương. Thấy vậy, B bảo T chở B đến tiệm thuốc tây ở đầu hẻm m Nguyễn Thái H, thành phố Q để B đứng chờ rồi T quay lại nhà anh T tìm cách lấy tài sản cho B trả nợ.

Khoảng 09 giờ 30 cùng ngày, T chạy xe máy đến dừng trước nhà rồi giả vờ hỏi N và N: “Ở đây có B học lớp 10 không?”. N và N trả lời “không biết” nên T bảo N và N: “Cho chú mượn điện thoại gọi cho bạn chú chút, điện thoại của chú hết tiền”. N tưởng thật nên lấy điện thoại Oppo A15s màu xanh dương của N để trên bàn đưa cho T mượn. T giả vờ bấm điện thoại, đưa lên tai nghe giống như đang gọi điện cho bạn. Thấy cả N và N đứng gần đó nhìn nên T không dám chiếm đoạt điện thoại bỏ đi vì sợ N và N truy hô người dân xung quanh chạy ra bắt giữ nên T tiếp tục giả vờ hỏi xin nước uống. Nghe vậy, N liền đi vào nhà sau lấy 01 chai nước đem ra đưa cho T. T chưa chiếm đoạt được điện thoại nên tiếp tục bảo: “Lấy cho chú mượn cái ly rót nước uống chứ chú uống chai không được”. N đi vào trong lấy ly uống nước, chỉ còn mình N đứng cạnh nên T liền đề xe nổ máy, cầm điện thoại của N điều khiển xe nhanh chóng tẩu thoát. N chạy bộ theo bảo trả điện thoại nhưng không đuổi kịp. Sau đó, T quay lại đầu hẻm m Nguyễn Thái Học, thành phố Q đón B và nói cho B biết đã lấy được một điện thoại Oppo A15s, B bảo T đi tìm chỗ bán điện thoại. T chở B đến tiệm điện thoại Q S-k C, phường Nguyễn Văn C, thành phố Q bán điện thoại Oppo A15s màu xanh dương vừa chiếm đoạt được cho anh Trần Ngọc Q (Sinh năm: 1990 - Chủ tiệm) với giá 500.000 đồng. B đưa cho T 100.000 đồng đổ xăng, còn lại 400.000 đồng B giữ trả nợ.

- Ngày 05/8/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Q kết luận: 01 (Một) điện thoại di động hiệu Oppo A15s màu xanh dương, đã qua sử dụng, giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 2.900.000 đồng.

- Vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Q đã tạm giữ 01 xe môtô Honda Vision, màu đen, biển số 77B1 - 038.57, số khung: 5806EY026907, số máy: JF58E0026954, đã qua sử dụng và 02 đĩa DVD lưu trữ đoạn video ghi lại quá trình Phạm Duy T thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.

- Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo Phạm Duy T, Phạm Thị Ngọc B đã bồi thường cho bị hại Hoàng Thị Kim T 300.000 đồng, bị hại Nguyễn Thị Ái N 1.500.000 đồng, bị hại Lâm Thị T 12.000.000 đồng, bị hại Đào Thị Minh H 8.500.000 đồng, bị hại Lê Trịnh Thảo N 2.900.000 đồng, các bị hại không yêu cầu gì khác về dân sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 115/2022/HS-ST ngày 17/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định đã quyết định: Tuyên bố: Các bị cáo Phạm Thị Ngọc B, Phạm Duy T phạm tội: “Trộm cắp tài sản” và tội “Cướp giật tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị Ngọc B 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm d, g khoản 2 Điều 171, điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 55 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị Ngọc B 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Tổng hợp hình phạt của 02 tội, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 42 (bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Duy T 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm d, g khoản 2 Điều 171, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 55 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Duy T 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Tổng hợp hình phạt của 02 tội, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 48 (bốn mươi tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/9/2021.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định pháp luật.

- Ngày 18/5/2022, bị cáo Phạm Duy T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 23/5/2022, bị cáo Phạm Thị Ngọc B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà Kiểm sát viên đề nghị quan điểm giải quyết vụ án đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phạm Thị Ngọc B, Phạm Duy T; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Thị Ngọc B thay đổi toàn bộ nội dung kháng cáo, bị cáo kháng cáo kêu oan, bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội, nhưng căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ, lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Duy T tại phiên tòa và các bản tự khai tại các bút lục 102, 103, 104; biên bản ghi lời khai tại bút lục 113, 114, 115; biên bản hỏi cung bị can tại các bút lục từ 125 đến 132 bị cáo B đều khai nhận bị cáo rủ bị cáo T cùng thực hiện trót lọt 04 lần trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt 22.300.000 đồng, trong đó có hai lần các bị cáo chiếm đoạt tài sản trị giá trên 2.000.000 đồng. Ngoài ra, hai bị cáo còn sử dụng xe mô tô đến tiếp cận cháu Lê Trịnh Thảo N (dưới 16 tuổi) lấy điện thoại Oppo A15s rồi nhanh chóng lên xe mô tô tẩu thoát. Trị giá tài sản chiếm đoạt 2.900.000 đồng. Như vậy, tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định xét xử các bị cáo Phạm Thị Ngọc B, Phạm Duy T về tội: “Trộm cắp tài sản” và tội “Cướp giật tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173; điểm d, g khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2] Bị cáo Phạm Duy T vẫn giữ nguyên kháng cáo xin giảm hình phạt, hội đồng xét xử thấy rằng: Vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo B với vai trò khởi xướng, rủ rê lôi kéo bị cáo T cùng thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo T với vai trò là người thực hành, trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Sau khi phạm tội, các bị cáo Phạm Thị Ngọc B và Phạm Duy T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho các bị hại. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo B phản cung không thừa nhận hành vi phạm tội nên bị cáo B không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Vì bị cáo chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS, lẻ ra không áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS để xử bị cáo dưới khung hình phạt và phải sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với tội “Cướp giật tài sản”, nhưng để ổn định bản án và không làm bất lợi cho bị cáo, nên hội đồng xét xử giữ nguyên hình phạt án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo Phạm Thị Ngọc B. Đối với bị cáo Phạm Duy T, Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS và tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS, xử phạt bị cáo Phạm Duy T 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 36 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” là phù hợp. Tại phiên tòa, bị cáo T không cung cấp thêm chứng cứ nào khác để làm căn cứ để giảm nhẹ hình phạt nên hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Duy T.

[3] Về án phí HSPT: Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Phạm Thị Ngọc B, Phạm Duy T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các phần quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phạm Thị Ngọc B, Phạm Duy T, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp với nhận định của hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm d, g khoản 2 Điều 171; điểm b khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; Điều 55 Bộ luật hình sự; đối với bị cáo Phạm Thị Ngọc Bích.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm d, g khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 55 Bộ luật hình sự; đối với bị cáo Phạm Duy Tiến.

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phạm Thị Ngọc B, Phạm Duy T. Giữ nguyên bản án sơ thẩm 2.1. Xử phạt bị cáo Phạm Thị Ngọc B 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Tổng hợp hình phạt của 02 tội, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 42 (bốn mươi hai) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2.2. Xử phạt bị cáo Phạm Duy T 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Tổng hợp hình phạt của 02 tội, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 48 (bốn mươi tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/9/2021.

3. Về án phí: Các bị cáo Phạm Thị Ngọc B, Phạm Duy T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản và cướp giật tài sản số 133/2022/HS-PT

Số hiệu:133/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về