Bản án 94/2020/HS-PT ngày 08/09/2020 về tội trộm cắp tài sản và cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 94/2020/HS-PT NGÀY 08/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 64/2020/TLPT-HS ngày 29 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo Huỳnh Ngọc H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2020/HS-ST ngày 15/06/2020 của Tòa án nhân dân thành phố MT, tỉnh Tiền Giang.

- Bị cáo có kháng cáo: Huỳnh Ngọc H, sinh 1998 tại Tiền Giang; Nơi cư trú: Khu H ấp C, xã TA, thành phố MT, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; cha Huỳnh Ngọc H1 sinh 1977 và mẹ Lê Tuyết M sinh 1983; bị cáo sống như vợ chồng với Lý Thị Hồng N sinh 2001; bị cáo có một người con sinh 2019; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/10/2019 đến nay (có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án có 05 người bị hại, 04 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo; bản án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

* Về hành vi trộm cắp tài sản:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 02 giờ ngày 09/4/2019, Huỳnh Ngọc H điều khiển xe mô tô hiệu Sirius màu xanh bạc, biển số 63B9-xxx.xx chở bạn gái là Lý Thị Hồng N đến khu vực cầu Rạch Miễu thì gặp Đỗ Bá T, sinh 1994, ngụ ấp N, xã TA, thành phố MT và S không rõ họ tên địa chỉ nên rủ nhau đi chơi. Khi đi ngang nhà anh Cao Nhựt T1, sinh 1982, địa chỉ ấp LN, xã BĐ, Huyện CT, tỉnh Tiền Giang. Bị cáo H thấy trong nhà treo chim cảnh nên kêu cả nhóm dừng xe lại; bị cáo leo rào vào nhà T1 lấy trộm 04 lồng chim (mỗi lồng có 01 con chim) chuyền ra ngoài cho Sàn. Sau đó cả bọn chạy về hướng xã TA. Khi đi ngang nhà ông Trần Văn T2, sinh 1952, ngụ đường LTHG, phường S, thành phố MT; bị cáo H tiếp tục vào lấy trộm 01 lồng chim. Sau đó, bị cáo H chở N về nhà trọ thì bị Công an thành phố MT bắt giữ cùng tang vật.

Lý Thị Hồng N có đi cùng bị cáo Huỳnh Ngọc H nhưng trước và trong khi H thực hiện hành vi trộm cắp tài sản N không biết, không tham gia, đến khi bị cáo H đem các lồng chim đến chỗ N đứng thì N mới biết nên chưa đủ cơ sở quy kết N đồng phạm với bị cáo H. Đối với đối tượng tên Sàn do bị cáo H không rõ họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra chưa triệu tập ghi lời khai được, hiện đang tiếp tục điều tra làm rõ nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 75 ngày 17/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố MT kết luận: 04 con chim chích chòe và 04 lồng chim trị giá 4.100.000 đồng. Riêng anh Trần Văn T từ chối định giá lồng chim bị trộm.

- Vụ thứ hai: Khoảng 16 giờ 15 phút ngày 19/7/2019, bị cáo H điều khiển xe mô tô hiệu Exciter màu trắng đen, biển số 63B3-xxx.xx đi ngang quán cà phê “VTV” của chị Nguyễn Thị Thùy L, sinh 1984 tại địa chỉ đường NTT, phường S, thành phố MT. Bị cáo nhìn thấy trong quán để một máy làm mát không khí hiệu Sunhouse màu trắng của chị L nên lén lút đi vào lấy trộm đem về phòng trọ cất giấu.

Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 4155 ngày 29/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố MT kết luận: 01 máy làm mát không khí hiệu Sunhouse trị giá 2.693.091 đồng.

- Vụ thứ ba: Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 05/8/2019, bị cáo H điều khiển xe mô tô biển số 63B3-xxx.xx đến trước quán cà phê “Moca”, địa chỉ đường TQT, phường B, thành phố MT do chị Đinh Thị Hoài N, sinh 1993, ngụ đường ĐTN, phường N, thành phố MT làm chủ, bị cáo nhìn thấy trong quán có treo 01 đồng hồ quả lắc, chất liệu gỗ của N nên lén lút đi vào lấy trộm. Sau đó, bị cáo gọi điện cho Đỗ Bá T nhờ tìm người mua chiếc đồng hồ trên. T liên hệ Đặng Đình T3, sinh năm 1979, ngụ số 202, đường ĐTN, phường N, thành phố MT đến gặp H mua đồng hồ trộm trên với giá 600.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.

Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 4348 ngày 28/8/2019 của Hội đồng định giá thành phố MT kết luận: 01 đồng hồ quả lắc bằng gỗ hiệu Girod trị giá 5.000.000 đồng.

- Vụ thứ tư: Khoảng 01 giờ ngày 13/8/2019, bị cáo H điều khiển xe môtô biển số 63B3-xxx.xx cùng Đỗ Bá T đi ngang Khách sạn BT, địa chỉ số ấp MT, xã MP, thành phố MT do anh Lê Quang H, sinh 1969, địa chỉ đường THĐ, phường 2, thành phố MT làm chủ. Tại đây, bị cáo H nhìn thấy trên tường có treo 01 đồng hồ quả lắc bằng gỗ nên bị cáo kêu T đứng chờ, sau đó lén lút leo rào vào trong lấy trộm đồng hồ đem ra ngoài thì bị nhân viên khách sạn phát hiện truy hô. Sau đó, T gọi điện liên hệ và đưa đồng hồ trên cho Đặng Đình T3 giữ dùm. Đến 13 giờ cùng ngày, T3 biết đồng hồ do bị H trộm nên giao nộp cho cơ quan Công an.

Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 4144 ngày 26/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố MT kết luận: 01 đồng hồ quả lắc bằng gỗ trị giá 4.000.000 đồng.

Đặng Đình T3 có mua, giữ dùm 02 đồng hồ do bị cáo H trộm của bị hại N, Hạnh nhưng T3 không biết đó là tài sản do bị cáo H trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không khởi tố T3 về tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là có cơ sở.

* Về hành vi cướp giật tài sản:

Khong 18 giờ ngày 06/10/2019, Đỗ Bá T, sinh 1994, ngụ ấp N, xã ĐT, thành phố MT điều khiển xe mô tô biển số 63B3-xxx.xx chở bị cáo H đến đoạn gần ti m hớt tóc “L” trên đường Huyện lộ 92, ấp H, xã ĐT, thành phố MT. Tại đây, T nhìn thấy bà Võ Thị Hữu P, sinh 1973, ngụ ấp BB, xã ĐT, thành phố MT dừng xe môtô trước ti m hớt tóc, trên ba ga trước của xe có để 01 giỏ xách màu đen (bên trong có 13.180.000 đồng tiền Việt Nam) nên T chỉ cho bị cáo H thấy và dừng xe lại. Bị cáo H hiểu ý nên bước xuống xe đi bộ đến phía sau bà P, nhanh chóng dùng tay trái giật giỏ xách của bà P rồi bỏ chạy được khoảng 04 mét thì bị em Nguyễn Ngô Nhật D1, sinh ngày 06/5/2003 (con ruột và ngụ cùng địa chỉ bà P) đang đứng gần đó và anh Trần Hải D, sinh 1973 (chủ ti m hớt tóc Lâm) đuổi theo nên bị cáo H ném giỏ xách lại. Lúc này, D1 và D đuổi theo kịp bị cáo H. D1 dùng 02 tay ôm bị cáo H, bị cáo H chống cự lại bằng cách dùng tay gỡ tay H ra và cầm nón bảo hiểm của bị cáo đánh trúng đầu D1 làm D1 bị xây xát nhẹ nhằm mục đích tẩu thoát nhưng sau đó bị bắt quả tang cùng tang vật. Riêng Đỗ Bá T điều khiển xe chạy thoát.

Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 5336 ngày 08/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố MT kết luận: 01 giỏ xách màu đen trị giá 280.000 đồng.

Về trách nhi m dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt nên không yêu cầu bồi thường. Khi bắt H, D1 bị H gây xay xát nhẹ nên không yêu cầu bồi thường.

Đỗ Bá T có liên quan với bị cáo H trong 03 vụ trộm cắp tài sản và một vụ cướp giật tài sản nhưng T đi đâu không rõ, chính quyền địa phương không biết, Cơ quan điều tra hiện tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2020/HS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố MT, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Ngọc H phạm tội tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Cướp giật tài sản”.

Căn cứ theo điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, khoản 1 Điều 173 và điểm đ khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc H 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Căn cứ Điều 50 Bộ luật hình sự.

Bị cáo H phải chấp hành hình phạt chung là 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 06/10/2019.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo về quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

* Ngày 23 tháng 6 năm 2020, bị cáo Huỳnh Ngọc H có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

* Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Huỳnh Ngọc H vẫn giữ nguyên nội dung trong đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm cho rằng đơn kháng cáo của bị cáo H trong hạn luật định nên được cấp phúc thẩm chấp nhận xem xét giải quyết.

Về hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo H cùng với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhi m hình sự nên xử phạt bị cáo H mức án 02 (hai) năm tù cho tội “Trộm cắp tài sản” và 04 (bốn) năm tù cho tội “Cướp giật tài sản” là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm không phát sinh thêm tình tiết giảm nhẹ mới nào để xem xét nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Ngọc H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu, lời thừa nhận của bị cáo là phù hợp với lời khai nhân chứng, phù hợp với lời khai của những người bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã thể hi n: Từ tháng 4/2019 đến tháng 8/2019 bị cáo H đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu đột nhập vào nhà các anh, chị Cao Nhựt T1, Trần Văn T2, Nguyễn Thị Thùy L, Đinh Thị Hoài N, Lê Quang H lấy trộm tài sản. Theo Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố MT thì tổng tài sản bị chiếm đoạt trị giá: 15.793.091 đồng. Ngoài ra, vào khoảng 18 giờ ngày 06/10/2019, bị cáo còn cùng Đỗ Bá T, sinh 1994, ngụ ấp 5, xã Đạo Thạnh, thành phố MT giật giỏ sách của bà Võ Thị Hữu P, sinh 1973, ngụ ấp BB, xã ĐT, thành phố MT bên trong có 13.180.000 đồng. Sau khi bị truy đuổi bị cáo ném trả giỏ sách và đã sử dụng nón bảo hiểm làm hung khí tấn công người truy đuổi để tẩu thoát. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và tội ”cướp giật tài sản“ theo quy định tại điểm đ khoản 2 điều 171 Bộ luật Hình sự là có cơ sở đúng pháp luật.

[2] Xét hành vi của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì động cơ xấu tham lam, muốn có tiền tiêu xài khỏi phải lao động, mà bị cáo cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi phạm tội của bị cáo, chẳng những xâm phạm nghiêm trọng đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại mà còn gây mất trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Gây ra tâm lý hoang mang lo sợ bức xúc trong người dân. Bản thân của bị cáo là một người đã thành niên, có sức khỏe nhưng lại ham chơi bời liêu lỏng, phạm tội liên tục nên hành vi này cần phải được xử lý nghiêm khắc nhằm răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3] Về mức án, bị cáo chỉ có một tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ trộm đã được thu hồi trả lại cho người bị hại; Tuy nhiên bị cáo có đến 4 lần phạm tội trộm nên mức án 02 năm là phù hợp. Đối với tội cướp tài sản, khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã có sự nhầm lẫn trong áp dụng pháp luật, cụ thể bị cáo chỉ thực hiện một lần hành vi cướp giật nhưng vẫn áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần cho tội này là chưa phù hợp; Tuy nhiên bị cáo bị truy tố tại điểm đ khoản 2 điều 171 Bộ luật hình sự có mức án từ 3 đến 10 năm; bị cáo chỉ có một tình tiết giảm nhẹ, nhân thân xấu nên mức án 4 năm là phù hợp; từ sau khi xét xử sơ thẩm đến nay không có tình tiết giảm nhẹ mới nào để xem xét nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Cấp sơ thẩm quyết định áp dụng điều 50 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt là có nhầm lẫn cần điểu chỉnh lại là điều 55 Bộ luật hình sự cho chính xác.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đã có cân nhắc xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Huỳnh Ngọc H.

Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 34/2020/HS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố MT, tỉnh Tiền Giang.

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc H 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc H 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự.

Tổng hợp hình phạt của 02 tội buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt chung là 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 06/10/2019.

2. Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

433
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2020/HS-PT ngày 08/09/2020 về tội trộm cắp tài sản và cướp giật tài sản

Số hiệu:94/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về