Bản án về tội trộm cắp tài sản số 92/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 92/2022/HS-ST NGÀY 22/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 22 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 79/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Trường G; sinh năm: 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã D, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn H và bà: Nguyễn Thị Thanh H; tiền án: 01 (ngày 23/02/2011 bị Tòa án nhân dân Quận 8 xử phạt 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số 27/2011/HSST); tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 04/12/2013 bị Ủy ban nhân dân Quận 8 quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh với thời hạn 24 tháng tại Quyết định số 7397/QĐ-UBND, ngày 09/3/2017 bị Tòa án nhân dân Quận 8 xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số 53/2017/HSST, ngày 24/01/2019 bị Tòa án nhân dân Quận 7 quyết định xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng tại Quyết định số 12/2019/QĐ-TA (tất cả đã xóa tiền án, tiền sự); bị bắt giữ ngày: 05/8/2022.

- Bị hại:

(Bị cáo có mặt).

Bà Nguyễn Ngọc Ánh N – Sinh năm: 2001 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số 56 đường N, Phường A, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 00 giờ 00 phút ngày 13/6/2022, Nguyễn Trường G gặp bạn tên Cu Đ (không rõ lai lịch) tại khu vực Trung Sơn huyện Bình Chánh, sau đó cả hai cùng đi uống cà phê trên đường Dương Bá Trạc Quận 8. Tại đây, Cu Đ rủ G đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài, G đồng ý. Sau đó, Cu Đ sử dụng xe môtô hiệu Wave màu đỏ (không rõ biển số) chở G đi lòng vòng qua nhiều tuyến đường tìm cơ hội chiếm đoạt tài sản. Đến khoảng 03 giờ 00 phút cùng ngày, khi đến trước nhà số 56 đường Nguyễn Ngọc Lộc Phường 14 Quận 10, cả hai thấy trên lầu 1 có cửa chính và cửa sổ nhà mở không khóa, nên Cu Đ dừng xe lại, G và Cu Đ đi bộ đến trước cửa nhà trên, Cu Đ ngồi xuống để G đứng lên vai bám vào khung sắt lan can rồi trèo lên ban công lầu 1, G đi lại cửa sổ thấy bà Nguyễn Ngọc Ánh N đang nằm ngủ trên giường, bên cạnh có để điện thoại di động Iphone X màu đen và 01 máy laptop hiệu Dell màu đen để sát cửa sổ, G lén lút chồm người qua cửa sổ dùng tay phải lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần bên trái, tiếp đến vào trong phòng bằng cửa chính rút sạc của máy laptop ra, rồi đi ra ban công đến cửa sổ chồm người qua dùng tay phải lấy máy laptop giấu vào trong người, xong trèo xuống đất leo lên xe Cu Đ chờ sẵn, chở tẩu thoát (hành vi của G đã bị camera ghi hình lại). Sau khi chiếm đoạt được tài sản, G đưa cho Cu Đ đem đi bán được 5.000.000 đồng (không rõ nơi bán) chia nhau mỗi người 2.500.000 đồng, G đã tiêu xài hết và từ đó đến nay cả hai không liên lạc với nhau. Sau khi phát hiện mất tài sản, bà Nguyễn Ngọc Ánh N đã đến Công an Phường 14 Quận 10 trình báo vụ việc. Công an Phường 14 Quận 10 đã lập hồ sơ ban đầu, sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tài sản bị chiếm đoạt: là 01 điện thoại di động Iphone X màu đen và 01 máy tính xách tay hiệu Dell màu đen. Tại bản kết luận định giá tài sản số 2835/KL-HĐĐGTS ngày 02/8/2022 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 điện thoại di động Iphone X màu đen trị giá 5.000.000 đồng, 01 máy tính xách tay hiệu Dell màu đen trị giá 9.500.000 đồng.

Căn cứ vào nội dung ghi hình của camera và qua truy xét, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định bắt tạm giam và khởi tố điều tra đối với Nguyễn Trường G về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Quá trình điều tra, G khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, phù hợp với biên bản thực nghiệm điều tra, biên bản chỉ điểm, hình ảnh camera an ninh đã ghi được tại nhà số 56 đường Nguyễn Ngọc Lộc, Phường 14, Quận 10.

Đối với đối tượng Cu Đ, chưa xác định được lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 tiếp tục truy xét, làm rõ, xử lý sau.

Vật chứng vụ án: 01 USB chứa dữ liệu hình ảnh trộm cắp của Nguyễn Trường G; 01 dĩa DVD ghi âm, ghi hình việc hỏi cung Nguyễn Trường G (đã lưu vào trong hồ sơ vụ án).

Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Ngọc Ánh N yêu cầu G bồi thường thiệt hại số tiền 14.500.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 80/CT-VKSQ10 ngày 12 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Nguyễn Trường G về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, bị hại, nêu lên những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (tái phạm), giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải); đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo: Nguyễn Trường G từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Đề nghị xử lý trách nhiệm và các biện pháp tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của bị cáo: Xin giảm nhẹ hình phạt.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình; qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, biên bản thực nghiệm điều tra, nội dung ghi hình camera, vật chứng, bản kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Nguyễn Trường G đã thực hiện nhiều hành vi lén lút chiếm đoạt các tài sản của bị hại với giá trị là 5.000.000 đồng + 9.500.000 đồng = 14.500.000 đồng, nên bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Ngoài ra, Hội đồng xét xử cần nhận định thêm như sau: Mặc dù bị cáo thực hiện nhiều hành vi chiếm đoạt các tài sản của bị hại nhưng liên tục, kế tiếp nhau về mặc thời gian, nên cần thiết cộng giá trị tài sản để xác định giá trị tài sản chiếm đoạt đối với bị cáo, nhưng không áp dụng tình tiết phạm tội từ 02 lần trở lên đối với bị cáo.

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Các hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội; ngoài ra, bị cáo còn có nhân thân không tốt. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng: Ngày 23/02/2011 bị Tòa án nhân dân Quận 8 xử phạt 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo đã bị kết án về tội phạm nghiêm trọng do cố ý, nhưng chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội ít nghiêm trọng do cố ý, hành vi này là tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo (nhưng chưa thật sự ăn năn hối cải thể hiện qua quá trình nhân thân của bị cáo); do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017), phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền nộp ngân sách Nhà nước.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự:

Tài sản bị chiếm đoạt là 01 điện thoại di động Iphone X màu đen và 01 máy tính xách tay hiệu Dell màu đen với giá trị tổng cộng là 14.500.000 đồng, chưa thu hồi lại được. Nay bị hại Nguyễn Ngọc Ánh N yêu cầu bị cáo Nguyễn Trường G bồi thường số tiền 14.500.000 đồng là trị giá các tài sản không thu hồi được. Xét thấy yêu cầu bị hại là hợp lý và hiện trong vụ án có cơ sở xác định Nguyễn Trường G là người thực hiện hành vi phạm tội; do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015, buộc bị cáo Nguyễn Trường G bồi thường khoản tiền 14.500.000 đồng cho bà Nguyễn Ngọc Ánh N.

Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trường G phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào khoản 1, 5 Điều 173; khoản 1 Điều 53; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Trường G;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường G 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/8/2022.

Phạt bổ sung bị cáo G 5.000.000 (năm triệu) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015; buộc: Bị cáo Nguyễn Trường G bồi thường số tiền 14.500.000 (mười bốn triệu năm trăm ngàn) đồng cho bà Nguyễn Ngọc Ánh N.

Thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 725.000 (Bảy trăm hai mươi lăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 92/2022/HS-ST

Số hiệu:92/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về