Bản án về tội trộm cắp tài sản số 90/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN Ô MÔN – THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 90/2023/HS-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 94/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:

1/ NGUYỄN VĂN Đ (Tên gọi khác: không), sinh ngày 12/6/1978. Tại: Kiên Giang.

Nơi cư trú: Ấp G, xã H, huyện R, tỉnh Kiên Giang. Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T2 và bà Lê Thị H; Có vợ và 02 con. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/9/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

2/ TRẦN VĂN N (Tên gọi khác: không), sinh ngày 16/11/1996. Tại: Kiên Giang.

Nơi cư trú: Ấp 7, xã V, huyện Q, tỉnh Kiên Giang. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Tr và bà Nguyễn Thị Th; Không có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 18/8/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

3/ NGUYỄN VĂN B (Tên gọi khác: không), sinh ngày 02/3/1979. Tại: Kiên Giang.

Nơi cư trú: Khu vực Tr, phường L, quận N, thành phố Cần Thơ. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tư Nh và bà Nguyễn Thị Đ3; Không có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 14/9/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

* Bị hại: Công ty cổ phần VM.

Địa chỉ trụ sở: Lô Y, Khu công nghiệp Tr2, phường P, quận M, thành phố Cần Thơ.

Người đại điện theo pháp luật: Ông Hoàng Trung T1 – Chức vụ: Tổng Giám đốc. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Tổ K, Phố Đ, phường S, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Trần Đ1, sinh năm 1988. (vắng mặt) Địa chỉ: Số U, khu vực Y, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ.

- Bà Nguyễn Thị Thu P, sinh năm 1974. (vắng mặt) Địa chỉ: Số X, đường số M, Khu phố Q, phường C, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Ông Đinh Văn T, sinh năm 1986. (vắng mặt) Địa chỉ: Số K, đường T, phường E, quận S, thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 09/12/2019, Nguyễn Văn Đ và Trần Văn N nhậu tại nhà của Đ ở ấp G, xã H, huyện R, tỉnh Kiên Giang, Đ nói với N là Công ty cổ phần VM trong Khu Công nghiệp Trà N II thuộc khu vực T, phường P, quận M, thành phố Cần Thơ không có ai trông coi, Đ rủ N lấy trộm tài sản thì N đồng ý. Lúc này, Nguyễn Văn B điện thoại cho Đ thì Đ rủ B đi lấy trộm tài sản thì B đồng ý, Đ chuẩn bị 01 bao nilong đựng các công cụ gồm: 05 chìa khóa. 01 mỏ lếch, 03 cây kềm, 01 cây dao rọc giấy, 01 cây vít và 02 cây lục giác rồi Đ điều khiển xe mô tô biển số 52Z5-X của Đ chở N đến một quán nước gần bến xe quận Ô Môn ngồi chờ B, B điều khiển xe mô tô biển số 65B1-X đến gặp Đ và N. Cả ba đi đến khu Công nghiệp Trà N II, nhưng do trời còn sáng, sợ mọi người phát hiện nên Đ, N và B vào quán cà phê ngồi chờ trời tối đi lấy trộm tài sản. Đ ghé vào tiệm tạp hóa ở phường Phước Thới mua 01 cây đèn pin đem theo để đi trộm cắp tài sản. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày Đ, N và B đến Công ty cổ phần VM, cả ba quan sát phát hiện xung quanh không có ai trông coi, Đ, N và B chui qua một lỗ trống vào trong công ty. Đ kêu B đứng ở ngoài canh đường còn Đ và N vào trong công ty cắt lấy 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đen, lõi bằng kim loại, chiều dài 67,5m, trọng lượng 8kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 3 sợi bằng kim loại, chiều dài 25,2m, trọng lượng 5 kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 4 sợi bằng kim loại, chiều dài 23m, trọng lượng 6,5kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đỏ xanh, lõi bằng kim loại, chiều dài 36,5m, trọng lượng 3,5kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu trắng, lõi bằng kim loại, chiều dài 7m, trọng lượng 3kg và 01 cái mô tơ điện bằng kim loại, nhãn hiệu Teco, 03 phase, trọng lượng 49kg. Đ cùng với N kéo các dây điện trên rồi cuộn thành từng cuộn đưa cho B đem ra ngoài; còn 01 cái mô tơ điện bằng kim loại, nhãn hiệu Teco được gắn trên cái sàn bằng kim loại cách mặt đất khoảng 4 mét nên Đ và N dùng cờ lê, mỏ lếch đem theo tháo mô tơ buộc vào các sợi dây điện. Sau đó Đ, N và B khiêng mô tơ trộm được ra bỏ vào túi ni lông để lên xe của Đ, các cuộn dây điện B và N để lên xe của B. Sau đó, Đ điều khiển xe chở mô tơ điện, còn B chở N cùng bao ni lông đựng cuộn dây điện vừa trộm được đến đoạn đường thuộc xã Trường Xuân B, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ thì bị lực lượng Công an xã Trường Xuân B, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ tuần tra phát hiện và mời về làm việc. Đ, N và B thừa nhận hành vi lấy trộm như nội dung nêu trên.

Tại kết luận định giá số 62/KLĐG ngày 12/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản quận Ô Môn kết luận: Giá của 01 mô tơ bằng kim loại, nhãn hiệu TECO, 03 phase, trọng lượng 49kg, đã qua sử dụng là 2.500.000 đồng. Giá của 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đen, lõi bằng kim loại, chiều dài 67,5m, trọng lượng 8kg, đã qua sử dụng là 560.000 đồng. Giá của 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 03 sợi bằng kim loại, chiều dài 25,2m, trọng lượng 5kg, đã qua sử dụng là 350.000 đồng. Giá của 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 04 sợi bằng kim loại, chiều dài 23cm, trọng lượng 6,5kg đã qua sử dụng là 455.000 đồng. Giá của 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đỏ xanh, lõi bằng kim loại, chiều dài 36,5m, trọng lượng 3,5kg, đã qua sử dụng là 245.000 đồng. Giá của 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu trắng, lõi bằng kim loại, chiều dài 7m, trọng lượng 3kg, đã qua sử dụng là 210.000 đồng. Tổng giá trị của tài sản vào thời điểm xảy ra vụ trộm cắp tài sản (ngày 09/12/2019) là 4.320.000 đồng (Bốn triệu ba trăm hai mươi nghìn đồng).

Qua xác minh Công ty Cổ phần Việt Nam Motors Cần Thơ do ông Hoàng Trung T1 nguyên là chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần VM là đại điện pháp luật cho Công ty. Qua làm việc ông T1 trình bày: các tài sản bị mất trộm là thuộc quyền sở hữu của Công ty cổ phần VM và yêu cầu xử lý đúng theo quy định của pháp luật.

Đối với xe mô tô biển số 52Z5-X, kiểu dáng xe Dream, số khung: RPDDCG1PD5A001110, số máy: VSFPD1P5OFMG300001110 do anh Nguyễn Thanh T4, địa chỉ B, Nguyễn Thần H, phường L, quận D, thành phố Hồ Chí Minh là chủ sở hữu. Qua xác minh thì không có ai tên Nguyễn Thanh T4 sinh sống tại địa chỉ trên.

Còn xe mô tô kiểu dáng xe Wave, biển số 65B1-X, số máy: 1P52FMH10399697, số khung WE11010399697 của ông Trần Kim D, địa chỉ 34/2A, Khu vực Y, phường B, quận R, thành phố Cần Thơ là chủ sở hữu. Qua xác minh ông D chết vào năm 2012, con của ông D là ông Trần Đ1 xác định xe mô tô trên được ông D bán lại cho người khác vào năm 2011, không biết rõ họ tên địa chỉ người mua, không có làm hóa đơn chứng từ hay hợp đồng mua bán xe.

Vật chứng thu giữ: 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đen, lõi bằng kim loại, chiều dài 67,5m, trọng lượng 8kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 3 sợi bằng kim loại, chiều dài 25,2m, trọng lượng 5kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 4 sợi bằng kim loại, chiều dài 23m, trọng lượng 6,5kg 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đỏ xanh, lõi bằng kim loại, chiều dài 36,5m, trọng lượng 3,5kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu trắng, lõi bằng kim loại chiều dài 7m, trọng lượng 3kg; 01 cái mô tơ bằng kim loại, nhãn hiệu Teco, 03 phase, trọng lượng 49kg; 01 cây mỏ lếch bằng kim loại có ghi số 300 x 36; 01 cây kềm bằng kim loại, cán được bọc vỏ nhựa màu đỏ, nhãn hiệu GOODMAN; 01 cây kềm bằng kim loại, cán có bọc vỏ nhựa màu đỏ đen; 01 cây kềm cắt tôn bằng kim loại, cán có bọc vỏ nhựa màu vàng đen, nhãn hiệu MAXPRO; 01 cây điếu hình chữ L bằng kim loại, trên thân có ghi chữ Rebei 17mm; 01 cây điếu hình chữ L bằng kim loại, trên thân có ghi số 12; 01 cây tua vít bằng kim loại có bọc vỏ nhựa màu đen; 01 cây cờ lê vòng miệng 18mm bằng kim loại, nhãn hiệu DIAMOND BRAND: 01 cây cờ lê vòng miệng 9mm bằng kim loại, nhãn hiệu DIAMOND BRAND; 01 cây cờ lê vòng miệng 10mm bằng kim loại, nhãn hiệu DIAMOND BRAND; 01 cây cờ lê vòng miệng 8mm bằng kim loại, nhãn hiệu Eastman; 01 chìa lục giác hình chữ L bằng kim loại, nhãn hiệu CHESSCO, có hai đầu mỗi đầu có đường kính 8mm; 01 chìa lục giác hình chữ L bằng kim loại, nhãn hiệu HOTSSMAN PROFESSIONAL U.S.A S2, có hai đầu mỗi đầu có đường kính 6mm; 01 cờ lê hai đầu vòng bằng kim loại, một đầu có đường kính 14mm, một đầu có đường kính 17mm; 01 cây dao rọc giấy bằng kim loại, có vỏ nhựa màu xanh đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu WIKO màu đen; 01 xe mô tô biển số 52Z5-X, kiểu dáng xe DREAM, số khung: RPDDCG1PD5A001110, số máy: VSFPD1P5OFMG300001110, không rõ chất lượng Bn trong; 01 xe mô tô kiểu dáng xe Wave, biển số 65B1-X, số máy: 1P52FMH10399697, số khung WE11010399697; 01 cái túi xách bằng ni lông, màu xanh, chiều ngang 62cm, chiều dài 46cm; 01 cái túi xách bằng ni lông, màu trắng, chiều ngang 56cm, chiều dài 50cm; 01 cái bao tải bằng ni lông, màu trắng, chiều ngang 59cm, chiều dài 106cm; 01 cây đèn pin màu trắng, chiều dài 11,5cm, có chui cắm sạc pin bằng kim loại (tất cả đã qua sử dụng) và tiền Việt Nam 1.982.000 đồng (Một triệu chín trăm tám mươi hai nghìn đồng).

Tại Cáo trạng số 02/CT-VKSOM ngày 06/12/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Ô Môn đã truy tố Nguyễn Văn Đ, Trần Văn N và Nguyễn Văn B về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại điện Viện kiểm sát nhân dân quận Ô Môn trình bày lời luận tội vẫn giữ quan điểm truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Trần Văn N và Nguyễn Văn B theo tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng. Đồng thời phân tích những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đ từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo N từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo B từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý vật chứng theo quy định:

Trả lại cho bị hại 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đen, lõi bằng kim loại, chiều dài 67,5m, trọng lượng 8kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 3 sợi bằng kim loại, chiều dài 25,2m, trọng lượng 5kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 4 sợi bằng kim loại, chiều dài 23m, trọng lượng 6,5kg 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đỏ xanh, lõi bằng kim loại, chiều dài 36,5m, trọng lượng 3,5kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu trắng, lõi bằng kim loại chiều dài 7m, trọng lượng 3kg; 01 cái mô tơ bằng kim loại, nhãn hiệu Teco, 03 phase, trọng lượng 49kg.

Trả lại cho bị cáo Đ số tiền 1.524.000 đồng; Trả lại cho bị cáo B số tiền 458.000 đồng do không có liên quan đến việc phạm tội.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe mô tô biển số 52Z5-X, kiểu dáng xe DREAM, số khung: RPDDCG1PD5A001110, số máy: VSFPD1P5OFMG300001110, không rõ chất lượng Bn trong; 01 xe mô tô kiểu dáng xe Wave, biển số 65B1-X, số máy: 1P52FMH10399697, số khung WE11010399697; 01 điện thoại di động hiệu WIKO màu đen và 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đen do các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Tịch thu tiêu hủy 01 cây mỏ lếch bằng kim loại có ghi số 300 x 36; 01 cây kềm bằng kim loại, cán được bọc vỏ nhựa màu đỏ, nhãn hiệu GOODMAN;

01 cây kềm bằng kim loại, cán có bọc vỏ nhựa màu đỏ đen; 01 cây kềm cắt tôn bằng kim loại, cán có bọc vỏ nhựa màu vàng đen, nhãn hiệu MAXPRO; 01 cây điếu hình chữ L bằng kim loại, trên thân có ghi chữ Rebei 17mm; 01 cây điếu hình chữ L bằng kim loại, trên thân có ghi số 12; 01 cây tua vít bằng kim loại có bọc vỏ nhựa màu đen; 01 cây cờ lê vòng miệng 18mm bằng kim loại, nhãn hiệu DIAMOND BRAND: 01 cây cờ lê vòng miệng 9mm bằng kim loại, nhãn hiệu DIAMOND BRAND; 01 cây cờ lê vòng miệng 10mm bằng kim loại, nhãn hiệu DIAMOND BRAND; 01 cây cờ lê vòng miệng 8mm bằng kim loại, nhãn hiệu Eastman; 01 chìa lục giác hình chữ L bằng kim loại, nhãn hiệu CHESSCO, có hai đầu mỗi đầu có đường kính 8mm; 01 chìa lục giác hình chữ L bằng kim loại, nhãn hiệu HOTSSMAN PROFESSIONAL U.S.A S2, có hai đầu mỗi đầu có đường kính 6mm; 01 cờ lê hai đầu vòng bằng kim loại, một đầu có đường kính 14mm, một đầu có đường kính 17mm; 01 cây dao rọc giấy bằng kim loại, có vỏ nhựa màu xanh đen; 01 cái túi xách bằng ni lông, màu xanh, chiều ngang 62cm, chiều dài 46cm; 01 cái túi xách bằng ni lông, màu trắng, chiều ngang 56cm, chiều dài 50cm; 01 cái bao tải bằng ni lông, màu trắng, chiều ngang 59cm, chiều dài 106cm; 01 cây đèn pin màu trắng, chiều dài 11,5cm, có chui cắm sạc pin bằng kim loại (tất cả đã qua sử dụng).

- Các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Trần Văn N và Nguyễn Văn B thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng. Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án; quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về căn cứ buộc tội:

Lời khai nhận của các bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại và lời khai của các đương sự khác; phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, kết quả định giá tài sản và các chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong quá trình điều tra vụ án. Từ đó có đủ cơ sở chứng minh:

Vào khoảng 19 giờ ngày 09/12/2019, lợi dụng lúc trời tối và không có người trông coi tài sản, các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Trần Văn N và Nguyễn Văn B đã có hành vi lén lút lấy trộm tài sản của Công ty cổ phần VM. Các bị cáo Đ, N, B đã chui qua một lỗ trống vào bên trong công ty, bị cáo Đ kêu bị cáo B đứng ở ngoài canh đường còn bị cáo Đ và bị cáo N vào bên trong nhà xưởng của công ty rồi dùng kéo (kềm cắt tôn màu vàng đen) để cắt 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đen, lõi bằng kim loại, chiều dài 67,5m, trọng lượng 8kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 3 sợi bằng kim loại, chiều dài 25,2m, trọng lượng 5 kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 4 sợi bằng kim loại, chiều dài 23m, trọng lượng 6,5kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đỏ xanh, lõi bằng kim loại, chiều dài 36,5m, trọng lượng 3,5kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu trắng, lõi bằng kim loại, chiều dài 7m, trọng lượng 3kg và dùng cờ lê, mỏ lết để tháo 01 cái mô tơ điện bằng kim loại, nhãn hiệu Teco, 03 phase, trọng lượng 49kg, mô tơ được gắn trên cái sàn bằng kim loại cách mặt đất khoảng 4m. Bị cáo Đ cùng với bị cáo N kéo các dây điện trên rồi cuộn thành từng cuộn đưa cho bị cáo B đem ra ngoài. Sau đó, các bị cáo Đ, N và B khiêng mô tơ trộm được ra bỏ vào túi ni lông để lên xe của bị cáo Đ, các cuộn dây điện bị cáo B và bị cáo N để lên xe của bị cáo B. Sau đó, bị cáo Đ điều khiển xe chở mô tơ điện, còn bị cáo B chở bị cáo N cùng bao ni lông đựng cuộn dây điện vừa trộm được đến đoạn đường thuộc xã Trường Xuân B, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ thì bị lực lượng Công an xã Trường Xuân B, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ tuần tra phát hiện.

Tại kết luận định giá số 62/KLĐG ngày 12/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản quận Ô Môn kết luận: Giá của 01 mô tơ bằng kim loại, nhãn hiệu TECO, 03 phase, trọng lượng 49kg, đã qua sử dụng là 2.500.000 đồng. Giá của 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đen, lõi bằng kim loại, chiều dài 67,5m, trọng lượng 8kg, đã qua sử dụng là 560.000 đồng. Giá của 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 03 sợi bằng kim loại, chiều dài 25,2m, trọng lượng 5kg, đã qua sử dụng là 350.000 đồng. Giá của 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 04 sợi bằng kim loại, chiều dài 23cm, trọng lượng 6,5kg đã qua sử dụng là 455.000 đồng. Giá của 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đỏ xanh, lõi bằng kim loại, chiều dài 36,5m, trọng lượng 3,5kg, đã qua sử dụng là 245.000 đồng. Giá của 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu trắng, lõi bằng kim loại, chiều dài 7m, trọng lượng 3kg, đã qua sử dụng là 210.000 đồng. Tổng giá trị của tài sản vào thời điểm xảy ra vụ trộm cắp tài sản (ngày 09/12/2019) là 4.320.000 đồng (Bốn triệu ba trăm hai mươi nghìn đồng).

Với mức định lượng này, hành vi của các bị cáo Đ, N và B đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Ô Môn truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo đang trong độ tuổi lao động, lẽ ra phải biết ra sức lao động tạo thu nhập hợp pháp, điều đó mới giúp ích cho bản thân các bị cáo, gia đình và xã hội. Trái lại, chỉ vì lười lao động, muốn được hưởng lợi nhanh chóng nên các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Các bị cáo có sự thống nhất với nhau trong hành động, phạm tội có tính chất đồng phạm giản đơn. Tuy nhiên, bị cáo Đ là người rủ rê, chuẩn bị công cụ và trực tiếp thực hiện hành vi lấy trộm tài sản; còn bị cáo N và bị cáo B tham gia thực hiện cùng với bị cáo Đ một cách tích cực, bị cáo N cùng bị cáo Đ lấy tài sản đem ra ngoài, còn bị cáo B đứng Bn ngoài để canh đường, do đó mức án dành cho bị cáo Đ có phần cao hơn so với bị cáo N và bị cáo B. Xét tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo, cần phải có mức án nghiêm khắc, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe đối với các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản đã được thu hồi để trả lại cho bị hại. Do đó, khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét đến tình tiết này để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo theo quy định tại Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6]. Về xử lý vật chứng: Xét đề nghị của đại điện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.

[7]. Về án phí sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017); Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Đ, Trần Văn N và Nguyễn Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 38; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt:

1/ Nguyễn Văn Đ 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù.

Thời hạn phạt tù tính từ ngày 14/9/2023.

2/ Trần Văn N 01 (Một) năm tù.

Thời hạn phạt tù tính từ ngày 18/8/2023.

3/ Nguyễn Văn B 01 (Một) năm tù.

Thời hạn phạt tù tính từ ngày 13/9/2023.

* Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả lại cho bị hại Công ty cổ phần VM (có đại điện là ông Hoàng Trung T1) 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đen, lõi bằng kim loại, chiều dài 67,5m, trọng lượng 8kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 3 sợi bằng kim loại, chiều dài 25,2m, trọng lượng 5kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu xám, lõi có 4 sợi bằng kim loại, chiều dài 23m, trọng lượng 6,5kg 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu đỏ xanh, lõi bằng kim loại, chiều dài 36,5m, trọng lượng 3,5kg; 01 cuộn dây điện có vỏ nhựa màu trắng, lõi bằng kim loại chiều dài 7m, trọng lượng 3kg; 01 cái mô tơ bằng kim loại, nhãn hiệu Teco, 03 phase, trọng lượng 49kg.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Đ số tiền 1.524.000 đồng (Một triệu năm trăm hai mươi bốn nghìn đồng).

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn B số tiền 458.000 đồng (Bốn trăm năm mươi tám nghìn đồng).

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) xe mô tô biển số 52Z5- X, kiểu dáng xe DREAM, số khung: RPDDCG1PD5A001110, số máy: VSFPD1P5OFMG300001110, không rõ chất lượng Bn trong; 01 (một) xe mô tô kiểu dáng xe Wave, biển số 65B1-X, số máy: 1P52FMH10399697, số khung WE11010399697, không rõ chất lượng Bn trong; 01 (một) điện thoại di động hiệu WIKO màu đen (đã qua sử dụng) và 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu đen (đã qua sử dụng).

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) cây mỏ lếch bằng kim loại có ghi số 300x36;

01 (một) cây kềm bằng kim loại, cán được bọc vỏ nhựa màu đỏ, nhãn hiệu GOODMAN; 01 (một) cây kềm bằng kim loại, cán có bọc vỏ nhựa màu đỏ đen;

01 (một) cây kềm cắt tôn bằng kim loại, cán có bọc vỏ nhựa màu vàng đen, nhãn hiệu MAXPRO; 01 (một) cây điếu hình chữ L bằng kim loại, trên thân có ghi chữ Rebei 17mm; 01 (một) cây điếu hình chữ L bằng kim loại, trên thân có ghi số 12; 01 (một) cây tua vít bằng kim loại có bọc vỏ nhựa màu đen; 01 (một) cây cờ lê vòng miệng 18mm bằng kim loại, nhãn hiệu DIAMOND BRAND: 01 (một) cây cờ lê vòng miệng 9mm bằng kim loại, nhãn hiệu DIAMOND BRAND;

01 (một) cây cờ lê vòng miệng 10mm bằng kim loại, nhãn hiệu DIAMOND BRAND; 01 (một) cây cờ lê vòng miệng 8mm bằng kim loại, nhãn hiệu Eastman; 01 (một) chìa lục giác hình chữ L bằng kim loại, nhãn hiệu CHESSCO, có hai đầu mỗi đầu có đường kính 8mm; 01 (một) chìa lục giác hình chữ L bằng kim loại, nhãn hiệu HOTSSMAN PROFESSIONAL U.S.A S2, có hai đầu mỗi đầu có đường kính 6mm; 01 (một) cờ lê hai đầu vòng bằng kim loại, một đầu có đường kính 14mm, một đầu có đường kính 17mm; 01 (một) cây dao rọc giấy bằng kim loại, có vỏ nhựa màu xanh đen; 01 (một) cái túi xách bằng ni lông, màu xanh, chiều ngang 62cm, chiều dài 46cm; 01 (một) cái túi xách bằng ni lông, màu trắng, chiều ngang 56cm, chiều dài 50cm; 01 (một) cái bao tải bằng ni lông, màu trắng, chiều ngang 59cm, chiều dài 106cm; 01 (một) cây đèn pin màu trắng, chiều dài 11,5cm, có chui cắm sạc pin bằng kim loại (tất cả đã qua sử dụng).

(Vật chứng hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Ô Môn quản lý)

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Trần Văn N và Nguyễn Văn B – mỗi bị cáo phải nộp số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo được quyền kháng cáo. Đối với đương sự vắng mặt, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 90/2023/HS-ST

Số hiệu:90/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về