TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 89/2022/HS-PT NGÀY 13/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình mở phiên tòa công khai xét xử vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 74/2022/TLPT-HS ngày 01 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo Đào Hữu Ng do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2022/HS-ST ngày 22 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Bị cáo có kháng cáo: Đào Hữu Ng; tên gọi khác: Không; sinh ngày 10 tháng 9 năm 1974 tại xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Thôn T, xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Không nghề; trình độ học vấn: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Hữu Ng, sinh năm 1942 và bà Trần Thị Ng, sinh năm 1947; vợ: Lê Thị Thúy H, sinh 1982; có 02 con, lớn nhất sinh 1998, nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo không bị bắt tạm giam giữ ngày nào, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23/02/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
Vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập tham gia phiên tòa phúc thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 04 giờ 30 phút ngày 11/02/2022, Đào Hữu Ng đi bộ từ nhà của mình ở thôn T, xã L, huyện L đến nhà của ông Đào Hữu Q ở cùng thôn thấy chiếc xe kéo tự chế của ông Đào Hữu Đ (ông Đ ở đối diện nhà ông Quân) đang gửi tại sân nhà ông Q. Đào Hữu Ng đến lấy trộm xe kéo tự chế đến để ở bến sông gần nhà. Ng về nhà lấy xe mô tô BKS 73K7- 6316 đến kéo xe vừa trộm được chở hoa giấy đi bán tại chợ C thuộc xã Th, huyện L. Sau đó Ng kéo xe trên đến gửi tại nhà anh Phan Văn Th ở thôn Đ, xã Ph. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Ngọc liên lạc cho anh Th nhờ tìm người bán xe. Thông qua anh Th, Ngọc đã bán xe kéo tụ chế cho anh Đặng Đại B ở thôn Đ, xã Ph với giá 2.000.000 đồng. Số tiền bán được Ng cho anh B 50.000 đồng, cho chị Nguyễn Thị V (vợ anh Th 200.000 đồng). Kết luận định giá tài sản số 04/KL-HĐ ĐG ngày 22/02/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Lệ Thủy kết luận: 01 xe kéo tự chế, xe đã qua sử dụng có giá 5.000.000 đồng.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lệ Thủy tạm giữ 01 xe kéo tự chế, 01 xe mô tô nhãn hiệu DRIN màu nâu, BKS 73K7- 6316 (tất cả có đặc điểm như biên bản tạm giữ đồ vật, tài sản). Ngày 26/02/2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện Lệ Thủy đã trả lại 01 xe kéo tự chế cho ông Đào Hữu Đ; ngày 19/4/2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện Lệ Thủy đã trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu DRIN màu nâu, BKS 73K7- 6316 cho Đào Hữu Ng.
Về dân sự: Bị hại ông Đào Hữu Đ đã nhận lại tài sản, anh Đặng Đại B đã nhận lại tiền mua xe kéo tự chế và không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Bản Cáo trạng số 21/CT-VKSNDLT ngày 12/5/2022, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lệ Thủy đã truy tố bị cáo Đào Hữu Ng về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2022/HSST ngày 22/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy đã Quyết định: Tuyên bố các bị cáo Đào Hữu Ng phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Điều 38 của Bộ luật hình sự: Xử phạt: Bị cáo Đào Hữu Ng 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác..
Trong hạn luật định, ngày 01/7/2022 bị cáo Ng có đơn kháng cáo xin hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố xét xử phúc thẩm vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 65 của Bộ luật hình sự: chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ng sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên chấp nhận để xét xử phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của bị cáo Ng, Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên tòa, bị cáo Đào Hữu Ng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, phù hợp về mặt thời gian và địa điểm phạm tội, bị cáo chiếm đoạt giá trị tài sản là 01 chiếc xe kéo tự chế của ông Đào Hữu Đ trị giá 5.000.000 đồng. Do đó có đủ cơ sở để xác định Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2022/HS-ST ngày 22/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Đào Hữu Ng phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người đã trưởng thành, có đủ năng lực hành vi, nhưng do lười lao động nên bị cáo thấy sơ hở trong việc quản lý của chủ tài sản, bị cáo đã lén lút lấy trộm tài sản rồi đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Đào Hữu Ng xuất trình được thêm các tình tiết giảm nhẹ: Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; trong đợt lũ lịch sử tháng 10/2020 tại huyện Lệ Thủy bị cáo tích cực vào việc ứng cứu tài sản, tính mạng của bà con lối xóm và được chính quyền địa phương xã Lộc Thủy xác nhận, bố, mẹ bị cáo là hội viên thanh niên xung phong; bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ hình hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo, quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử thấy chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cần sửa bản án sơ thẩm cho bị cáo được hưởng án treo là phù hợp với quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự.
[4] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 355, Điều 357; điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đào Hữu Ng, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2022/HS-ST ngày 22/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy về phần hình phạt.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo: Đào Hữu Ng 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo về tội "Trộm cắp tài sản", thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (13/9/2022).
Giao bị cáo Đào Hữu Ng cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự;
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí: Bị cáo Đào Hữu Ng không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (13/9/2022).
(Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo).
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 89/2022/HS-PT
Số hiệu: | 89/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về