Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 85/2022/HS-ST NGÀY 01/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 57/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Thân Quốc H, sinh năm 2001 tại Đồng Nai;

Nơi đăng ký thường trú: Ấp S, xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai; Nơi đăng ký tạm trú: Ấp 3, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thân Trung C (đã chết) và bà Lê Thị C; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình, chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Ngày 25/6/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 46/2019/HSST (chấp hành xong hình phạt ngày 17/01/2020).

+ Ngày 28/10/2021, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai khởi tố bị can về tội Trộm cắp tài sản theo Quyết định khởi tố bị can số 457/CSĐT-TH ngày 28/10/2021.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 14/12/2021 và chuyển tạm giam đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai (có mặt).

2. Lê Tuấn K, sinh năm 2002 tại Đồng Nai;

Nơi cư trú: Ấp B, xã Đ, huyện N, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn S (đã chết) và bà Trần Thị Ngọc D; Gia đình bị cáo có 02 chị em, bị cáo là con út trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 10/4/2017, bị Công an huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xử 350.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo quyết định 45/QĐ- CAH-MT.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 14/12/2021 và chuyển tạm giam đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai (có mặt).

- Bị hại: Tập đoàn B Việt Nam.

Địa chỉ: 57, H, phường L, quận Đ, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Huỳnh Quang L – Chức vụ: Tổng Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Anh V – Chức vụ: Giám đốc Trung tâm V LT.

Địa chỉ: Trung tâm V LT, khu PH, thị trấn LT, huyện LT, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 13/12/2021, Lê Tuấn K nhắn tin rủ Thân Quốc H đi trộm cắp cáp viễn thông bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, H đồng ý. Đến khoảng 00 giờ 00 phút ngày 14/12/2021, H cầm theo 01 con dài 50 cm; 01 cái kìm cắt; 02 cái liềm; 02 cây bu lông bằng kim loại rồi điều khiển xe mô tô biển số 60C1-X đến phòng trọ của H ở ấp 3, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Sau đó, H điều khiển xe mô tô biển số 60C1-X còn K điều khiển xe mô tô biển số 60F8-X đến ấp 2, xã LA, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Tại đây, K đứng dưới cảnh giới còn H sử dụng 02 cây bu lông cắm vào cột điện rồi trèo lên dùng kìm cắt đã chuẩn bị trước cắt trộm cáp viễn thông đường dây điện thoại bàn. Sau khi cắt xong, K và H chở đến bãi rác ở lô cao su thuộc khu 12, xã LĐ, huyện LT, tỉnh Đồng Nai để cất giấu. Đến 05 giờ 30 phút cùng ngày, H và K quay lại chỗ cất giấu tài sản trộm cấp đem đi đốt và tách vỏ nhựa lấy lõi đồng để bán thì bị người dân phát hiện trình báo Công an xã LĐ lập hồ sơ thu giữ vật chứng và chuyển Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành điều tra theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, K và H còn khai nhận ngoài lần trộm cắp cáp viễn thông nêu trên thì vào ngày 07/12/2021 và ngày 10/12/2021 tại ấp 2, xã LA, huyện LT, tỉnh Đồng Nai với thủ đoạn như trên K và H đã trộm cắp 02 lần được 56 mét dây cáp viễn thông (điện thoại bàn) bán được 11.000.000 đồng chia nhau tiêu xài cá nhân.

Tại Bản kết luận định giá số 13/KL-HĐĐGTS ngày 23/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Long Thành kết luận:

+ 35 m dây cáp đồng (đường dây điện thoại bàn) loại 200*2*0.5, vỏ nhựa màu đen (đã qua sử dụng) trị giá 6.912.500 đồng (xảy ra ngày 07/12/2021).

+ 21 m dây cáp đồng (đường dây điện thoại bàn) loại 200*2*0.5, vỏ nhựa màu đen (đã qua sử dụng) trị giá 4.147.500 đồng (xảy ra ngày 10/12/2021)..

+ 15 kg vỏ dây cáp đồng màu đen (đã qua sử dụng) trị giá 15.000 đồng (xảy ra ngày 14/12/2021).

+ 87 kg lõi cáp đồng (đường dây điện thoại bàn) loại 200*2*0.5, có vỏ nhựa (đã qua sử dụng) trị giá 12.615.000 đồng (xảy ra ngày 14/12/2021).

+ 43 kg dây cáp đồng (đường dây điện thoại bàn) loại 50*2*0.5, vỏ nhựa màu đen (đã qua sử dụng) trị giá 2.365.000 đồng (xảy ra ngày 14/12/2021).

Tổng cộng 26.055.000 đồng (hai mươi sáu triệu, không trăm năm mươi lăm nghìn đồng).

Về vật chứng vụ án và tài sản thu giữ: 01 con dao dài 50 cm, 01 cái kìm cắt chuyên dụng, 02 cái liềm có cán nhựa màu xanh, 02 cây bu lông bằng kim loại; 01 điện thoại di động hiệu Samsung J4 màu đen, 01 điện thoại Nokia 1010, 15 kg vỏ dây cáp đồng màu đen, 87 kg lõi cáp đồng (đường dây điện thoại bàn) loại 200*2*0.5, vỏ nhựa (đã qua sử dụng), 43 kg dây cáp đồng (đường dây điện thoại bàn) loại 50*2*0.5, vỏ nhựa màu đen (đã qua sử dụng), 01 xe mô tô biển số 60F8-X và 01 xe mô tô biển số 60C1-X.

Tại Cáo trạng số 52/CT-VKSLT ngày 01 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố các bị cáo Thân Quốc H và Lê Tuấn K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Thân Quốc H và Lê Tuấn K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt:

+ Bị cáo Thân Quốc H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

+ Bị cáo Lê Tuấn K từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị tuyên buộc các bị cáo phải bồi thường cho bị hại theo quy định của pháp luật.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị tuyên buộc bị cáo Thân Quốc H và Lê Tuấn K phải nộp mỗi người số tiền 5.500.000 đồng là tiền các bị cáo phạm tội mà có để sung quỹ Nhà Nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Long Thành, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định.

[2] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận vào các ngày 07/12/2021, ngày 10/12/2021 và ngày 14/12/2021 tại khu vực ấp 2, xã LA, huyện LT, tỉnh Đồng Nai, Thân Quốc H và Lê Tuấn K đã 03 lần lén lút trộm cắp dây cáp viễn thông của Tập đoàn B Việt Nam có tổng trị giá 26.055.000 đồng thì bị phát hiện bắt giữ.

Xét thấy, các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai người đại diện của bị hại, biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Do đó, hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của pháp nhân được pháp luật bảo vệ, tác động xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do có tư tưởng hưởng thụ, lười lao động, muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để phục vụ nhu cầu của bản thân nên các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp sự trừng trị của pháp luật.

Do đó, cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, cần thiết áp dụng hình phạt tù để cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian, nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Trong vụ án này, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với tính chất đồng phạm giản đơn, không có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, trong đó bị cáo K rủ bị cáo H đi trộm cắp. Đối với bị cáo H đang bị khởi tố về tội Trộm cắp tài sản được cho tại ngoại, khi được K rủ đi trộm cắp cáp viễn thông, nhưng bị cáo là người chuẩn bị công cụ, phương tiện và là người trực tiếp, cũng như tích cực thực hiện hành vi phạm tội. Đối với bị cáo K tuy là người rủ bị cáo H đi trộm cắp tài sản nhưng khi đến nơi trộm cắp, bị cáo chỉ đứng cảnh giới và phụ bị cáo H quấn cáp, đưa lên xe và chở đi cất giấu. Do đó, bị cáo H phải chịu hình phạt cao hơn so với bị cáo K.

[5] Xét các bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và có nhân thân xấu.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đều tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Tập đoàn B Việt Nam do ông Trần Anh V đại diện theo ủy quyền yêu cầu các bị cáo có trách nhiệm bồi thường 40.920.000 đồng. Tại phiên tòa, các bị cáo đồng ý bồi thường nên ghi nhận, buộc các bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho Tập đoàn B Việt Nam số tiền 40.920.000 đồng, mỗi bị cáo 20.460.000 đồng.

[7] Về biện pháp tư pháp:

Cần tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài 50 cm, 01 cái kìm cắt chuyên dụng, 02 cái liềm có cán nhựa màu xanh, 02 cây bu lông bằng kim loại là công cụ phạm tội của các bị cáo.

Cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung J4 màu đen, 01 điện thoại Nokia 1010 là phương tiện các bị cáo liên lạc để trao đổi rủ đi trộm cắp tài sản.

Đối với số tiền các bị cáo thu lợi từ việc bán tài sản trộm cắp, tại phiên tòa đại điện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc các bị cáo, mỗi bị cáo phải nộp số tiền 5.500.000 đồng là tiền các bị cáo phạm tội mà có để sung quỹ Nhà nước. Xét các bị cáo đã thu lợi số tiền 11.000.000 đồng (mỗi bị cáo 5.500.000 đồng) tuy nhiên các bị cáo đã phải chịu nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bị hại Tập đoàn B Việt Nam số tiền lớn hơn số tiền mà các bị cáo thu lợi do đó các bị cáo không phải nộp số tiền thu lợi này vào ngân sách nhà nước.

[8] Những vấn đề khác:

Đối với 15 kg vỏ dây cáp đồng màu đen; 87 kg lõi cáp đồng (đường dây điện thoại bàn) loại 200*2*0.5, vỏ nhựa màu đen (đã qua sử dụng); 43kg dây cáp đồng (đường dây điện thoại bàn) loại 50*2*0.5, vỏ nhựa màu đen (đã qua sử dụng) đã trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ.

Riêng xe mô tô biển số 60F8-X và xe mô tô biển số 60C1-X do chưa làm việc được với chủ sở hữu nên Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ xác minh xử lý sau..

Đối với người đàn ông (chưa rõ nhân thân lại lịch) có hành vi mua tài sản mà H và K trộm cắp vào ngày 07/12/2021 và ngày 10/12/2021 Cơ quan điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.

[9] Về án phí: Các bị cáo Thân Quốc H và Lê Tuấn K, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.023.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58, Điều 38, Điều 47 và Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Căn cứ Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Căn cứ Điều 106, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố các bị cáo Thân Quốc H và Lê Tuấn K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1.1. Xử phạt bị cáo Thân Quốc H 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/12/2021.

1.2. Xử phạt bị cáo Lê Tuấn K 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/12/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Các bị cáo Thân Quốc H và Lê Tuấn K có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho Tập đoàn B Việt Nam số tiền 40.920.000 đồng (mỗi bị cáo 20.460.000 đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về biện pháp tư pháp:

3.1. Tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài 50 cm, 01 cái kìm cắt chuyên dụng, 02 cái liềm có cán nhựa màu xanh, 02 cây bu lông bằng kim loại.

Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai..

3.2. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung J4 màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1010.

Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai..

4. Về án phí: Các bị cáo Thân Quốc H và Lê Tuấn K, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.023.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Thân Quốc H và Lê Tuấn K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại Tập đoàn B Việt Nam có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2022/HS-ST

Số hiệu:85/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về