Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 85/2022/HS-ST NGÀY 14/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 14 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 2 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2022/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn Đ, Tên gọi khác: Nh; sinh ngày 19/3/1999; tại thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

Nơi ĐKTT: Số 333/3 ấp Ph, xã M, huyện Ch, tỉnh Kiên Giang. Chỗ ở: Không có nơi cư trú ổn định.

Nghề nghiệp: Ngư phủ; Trình độ học vấn: 5/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Nguyễn Văn Ngh và bà Phạm Thị Nh Tiền án, Tiền sự: Chưa.

Bị bắt tạm giam ngày 05/11/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Dương Quốc H, sinh ngày 20/7/1989; nơi sinh: Thành phố R, tỉnh Kiên Giang;

Nơi ĐKTT: Số 370/44 đường Ng, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang. Chỗ ở: Số 183/11/1A V, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 07/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Dương Văn N (đã chết) và bà Lâm Thị H (đã chết).

Có vợ Trần Thị Th, con 04 người lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2020.

Tiền án: Chưa Tiền sự: Ngày 06/8/2021 bị Công an thành phố Rạch Giá xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng theo quyết định số 23/QĐ-XPHC về hành vi Trộm cắp tài sản, chưa thi hành (chưa xóa tiền sự).

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Chị Võ Thị Thu O, sinh năm: 1971 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Số 72/2 L, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

2. Anh Lê Nguyễn Văn C, sinh năm: 2001 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Số 209 V, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

3. Anh Trần Đình Th, sinh năm: 1981 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Lô 16-C22 khu phố N, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

4. Anh Lương Bùi Tr Tr, sinh năm: 1993 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Số 135/38 Ng, phường R, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Các bị cáo Nguyễn Văn Đ và Dương Quốc H do không có tiền tiêu xài nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 02 giờ ngày 14/8/2021 H một mình điều khiển xe đạp trên đường V, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang đến ngang nhà anh Lê Nguyễn Văn C (địa chỉ số 205 đường V), H quan sát trong nhà không có người cửa sổ bên hông mở không có khung bảo vệ nên đã vào lấy trộm 01 âm ly hiệu Rinton PA -3600A màu vàng, 02 thùng loa hiệu BvM model 8951 màu đen ốp võ gỗ màu vàng; 01 loa màu đen không rõ nhãn hiệu, hình cái chảo. Sau đó bán cho Huỳnh Hữu M 01 âm ly hiệu Rinton PA - 3600A màu vàng, 02 thùng loa hiệu BvM model 8951 màu đen ốp võ gỗ màu vàng với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

Khoảng 02 giờ ngày 02/9/2021 Nguyễn Văn Đ một mình đi bộ trên các tuyến đường phường V khi đến trước cửa nhà số 72/2 đường L, phường V, thành phố R phát hiện 01 chiếc honda hiệu Wave alpha màu trắng biển kiểm soát 68D1-230.37 của chị Võ Thị Thu O đang đậu trước cửa nhà. Đại đến lấy trộm và dắt đến chỗ vắng khu đô thị Tây Bắc thì Đ bứt dây nguồn, nổ máy chạy mang đi cất giấu. Đến 10 giờ ngày 02/9/2021 Đ tháo bản kiểm soát 68D1-230.37 dứt bỏ và nhờ Nguyễn Văn H đi cầm dùm nhưng H nghi ngờ xe trộm cắp nên không cầm. Sau đó Đ đến vựa ve chai nhặt biển số xe số 68H1-2675 gắn vào và rủ Q (chưa rõ nhân thân) cùng đi cầm, Q đồng ý. Khi Đ điều khiển xe trên đường T, phường V thì bị Công an phường Vĩnh Quang kiểm tra thực hiện Chỉ thị 16 của Chính phủ, Đ không xuất trình được giấy tờ nên bị giữ lại xe.

Vào khoảng 14 giờ ngày 12/9/2021 H cùng Đ đến đường T, phường V trộm dây điện. Khi đến trụ điện số 475RG/81/33/19/10 và trụ điện 475RG/81/33/19/10 Đ leo lên cây bàng dùng kềm cắt một đoạn dây đôi nhãn hiệu CADIVI Duplex 2 x 10mm dài 24,8m sau đó gọt võ đồng và bán cho ông Võ Việt Th được 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) cả hai chia nhau xài.

Khoảng 01 giờ ngày 22/9/2021 Đ và H tiếp tục rủ nhau đi trộm dây điện, mỗi bị cáo dùng một cây kềm đến đoạn trụ điện 2/1 và trụ điện 2/3 trước nhà số B6 đường L, phường V cắt một đoạn dây đơn hiệu CADIVI loại 11mm2 dài 16,8 mét sau đó gọt võ đồng và bán cho ông Võ Việt Th được 220.000 đồng (hai trăm hai mươi nghìn đồng) cả hai chia nhau xài. Ngày 25/10/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá khởi tố bắt tạm giam Nguyễn Văn Đ, ngày 17/01/2022 khởi tố Dương Quốc H.

* Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Wave alpha màu trắng xám số máy HC12E5473050, số khung RLHHC1218DY42797, đã qua sử dụng trên xe gắn biển kiểm soát 68H1-2675.

- 01 (một) loa màu đen, không rõ nhãn hiệu, hình cái chảo, đã qua sử dụng;

- 01 (một) âm ly hiệu Rinton PA-3600 màu vàng đã qua sử dụng; 01 thùng loa hiệu BvM model 8951 màu đen ốp vỏ gỗ màu vàng, đã qua sử dụng.

* Tại bản kết luận định giá tài sản số 138/KL-HĐĐGTS, ngày 08/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Rạch Giá kết luận:

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Wave alpha màu trắng xám số máy HC12E5473050, số khung RLHHC1218DY42797, đã qua sử dụng không biển số giá trị thời điểm ngày 02/9/2021 là 8.700.000 đồng (tám triệu bảy trăm nghìn đồng).

- 02 (hai) thùng loa hiệu BvM model 8951 màu đen ốp vỏ gỗ màu vàng, đã qua sử dụng thời điểm tháng 8/2021 có giá trị 450.000 đồng/2 thùng (bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

- 01 (một) âm ly hiệu Rinton PA-3600 màu vàng đã qua sử dụng, thời điểm tháng 8/2021 có giá trị 470.000 đồng/2 thùng (bốn trăm bảy mươi nghìn đồng).

- 02 (một) loa màu đen, không rõ nhãn hiệu, hình cái chảo, đã qua sử dụng, thời điểm tháng 8/2021 có giá trị 450.000 đồng/2 thùng (bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

- 01 (một) đoạn dây đôi nhãn hiệu CADIVI Duplex 2 x 10mm dài 24,8m đã qua sử dụng thời điểm tháng 9/2021 có giá trị là 106.640 đồng (một trăm lẻ sáu ngàn sáu trăm bốn mươi đồng).

- 01 (một) đoạn dây đơn nhãn hiệu CADIVI loại 11mm2 dài 16,8m đã qua sử dụng thời điểm tháng 9/2021 có giá trị là 78.960 đồng (bảy mươi tám ngàn chín trăm sáu mươi đồng).

* Tại bản cáo trạng số: 49/CT-VKS ngày 11/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ (Nh), Dương Quốc H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ (Nh) mức án từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Dương Quốc H mức án từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tiêu hủy vật chứng không còn giá trị sử dụng là biển số 68H1-2675 Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo Đ: không có ý kiến. Bị cáo H: Thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo: Tại phiên toà, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời nhận tội phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, của những người tham gia tố tụng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Bị cáo Nguyễn Văn Đvà bị cáo Dương Quốc H đã thực hiện hành vị trộm cắp tài sản, bị cáo Đ đã thực hiện 03 lần trộm cắp tài sản, tổng giá trị tài sản là 8.885.600 đồng (tám triệu tám trăm tám mươi lăm nghìn sáu trăm đồng). Bị cáo H đã thực hiện trộm cắp tài sản 03 lần tổng tài sản trộm là 1.330.600 đồng (một triệu ba trăm ba mươi nghìn sáu trăm đồng). Từ những căn cứ trên có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ và Dương Quốc H cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng đã truy tố là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo ý thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Vì muốn có tiền tiêu xài mà không phải bỏ ra công sức lao động chân chính, nên các bị cáo đã bất chấp pháp luật thực hiện hành vi lén lút, lợi dụng sơ hở của bị hại để trộm cắp tài sản. Xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống bị hại và làm mất an ninh, trật tự ở địa phương. Do đó, cần xử lý bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội để cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội và đồng thời cũng nhằm ngăn ngừa chung loại tội phạm này. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo để tuyên xử các bị cáo mức án phù hợp, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với các bị cáo. Trong vụ án này, bị cáo Đ trộm cắp giá trị lớn hơn, vai trò cao hơn nên phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo H là phù hợp.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Dương Quốc H không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải và tài sản đã được trả lại cho bị hại nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Võ Thị Thu O, anh Lê Nguyễn Văn C đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì khác. Trong quá trình điều tra bị cáo và đại diện bị hại -ông Trần Đình Th yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại 106.640 đồng (một trăm lẻ sáu nghìn sáu trăm bốn mươi đồng), anh anh Lương Bùi Tr Tr yêu cầu bồi thường thiệt hại 78.960 đồng (bảy mươi tám nghìn chín trăm sáu mươi đồng) nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tiêu hủy vật chứng không còn giá trị sử dụng là biển số 68H1-2675.

[9]Các vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với ông Huỳnh Hữu M, ông Võ Việt Th không biết tài sản Đ và H trộm cắp mà có nên không xử lý trách nhiệm.

10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ (Nh), Dương Quốc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ (Nh), 09 (chín) tháng. Thời hạn tù kể từ ngày bị cáo bắt tạm giam ngày 05/11/2021.

- Xử phạt bị cáo Dương Quốc H, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù kể từ ngày bị cáo bị bắt chấp hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Võ Thị Thu O, anh Lê Nguyễn Văn C đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì khác. Các bị cáo Đ, H phải bồi thường thiệt hại cho anh Trần Đình Th 106.640 đồng (một trăm lẻ sáu nghìn sáu trăm bốn mươi đồng), anh anh Lương Bùi Tr Tr 78.960 đồng (bảy mươi tám nghìn chín trăm sáu mươi đồng).

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị tiêu hủy vật chứng không còn giá trị sử dụng là biển số 68H1-2675. (Theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 30/QĐ-VKS ngày 11/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Đại, Hận mỗi bị cáo phải chịu án phí là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày đương sự nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2022/HS-ST

Số hiệu:85/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về