Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 85/2022/HS-PT NGÀY 06/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 06 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 77/2022/TLPT-HS ngày 31 tháng 5 năm 2022 do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2022/HS-ST ngày 03/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Huỳnh Văn T, sinh ngày 16/8/1988; nơi cư trú: Thôn Đ, xã BD, huyện BS, tỉnh Quảng Ngãi; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Huỳnh C (Đã chết) và bà Nguyễn Thị H; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/9/2021 đến ngày 26/10/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh; bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

2. Hồ Hữu Đ, sinh ngày 02/01/1991; nơi cư trú: Thôn Đ, xã BD, huyện BS, tỉnh Quảng Ngãi; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Hồ S và bà Phạm Thị N; có vợ là Trần Thị T1 và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2008, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về các tội “Hủy hoại tài sản”, “Gây rối trật tự công cộng” (Theo Bản án số 66/2008/HSST, ngày 24/12/2008); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/9/2021 đến ngày 26/10/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh; bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Thanh Đ1, sinh ngày 18/3/1990; nơi cư trú: Thôn Đ, xã BD, huyện BS, tỉnh Quảng Ngãi; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Nguyễn Thanh T2 (Đã chết) và bà Ngô Thị T3; có vợ nhưng đã ly hôn; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/9/2021 đến ngày 26/10/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh; bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

4. Cao Tấn M, sinh ngày 23/9/1992; nơi cư trú: Thôn Đ1, xã BD, huyện BS, tỉnh Quảng Ngãi; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Cao Tấn H1 và bà Đoàn Thị L; có vợ là Nguyễn Thị L1, có 02 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 02/9/2021 đến ngày 08/9/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Hồ Hữu Đ: Ông Huỳnh Ngọc Ất - Luật sư Văn phòng Luật sư Quốc Ân, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi;

Địa chỉ: 943 đường Quang Trung, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Các bị cáo Huỳnh Văn T, Nguyễn Thanh Đ1, Hồ Hữu Đ và Cao Tấn M đều là nhân viên của Công ty Gia Phúc làm việc trong công trường của Công ty Cổ phần thép Hòa Phát Dung Quất thuộc xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Sáng ngày 01/9/2021, trước khi đi vào công trường nêu trên để làm việc thì các bị cáo T, Đ1, Đ và M cùng nảy sinh ý định và trao đổi, thống nhất với nhau việc lấy trộm dây cáp điện đồng của Công ty Hòa Phát Dung Quất để bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 17 giờ cùng ngày, sau khi hết giờ làm việc thì Đ đi đến khu vực trạm pha dầu của Tổ cơ khí lấy 01 máy cắt đem đến khu vực trạm xử lý nước mưa của Công ty Hòa Phát Dung Quất gặp T, Đ1 và M đã tập trung tại đây. Tại khu vực này, Công ty Hòa Phát Dung Quất có để nhiều loại dây cáp điện đồng nên các bị cáo đứng tại đây đợi công nhân ra về. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, T nhìn thấy 01 đoạn dây cáp điện đồng nằm dưới đất gần vị trí mương thoát nước của trạm xử lý nước mưa nên T cầm máy cắt để cắt dây cáp điện đồng ra thành nhiều đoạn nhỏ, còn Đ1, Đ và M đi đến phía sau trạm xử lý nước mưa và cùng nhau hỗ trợ, sử dụng máy để cắt dây cáp điện đồng trong một cuộn dây điện khác ra thành nhiều đoạn nhỏ.

Sau khi cắt xong, các bị cáo lấy thêm 01 cái cộ kéo tại khu vực này để vận chuyển các đoạn dây cáp điện đồng nêu trên đi đến tường rào phía đông gần cổng số 4 của công trường rồi đưa các đoạn dây cáp điện ra lỗ trống tường rào. Sau đó, Đ đi về nhà điều khiển xe ba bánh biển kiểm soát 61L6 –5157 (Đ mượn của Võ Minh H2 để tập lái) đến bên ngoài bờ tường nơi cất giấu tài sản. Lúc này, T, Đ1 và M cùng nhau đưa số dây cáp điện đồng nêu trên lên xe ba bánh nhằm vận chuyển đi tiêu thụ thì anh Nguyễn Trường T4 (Nhân viên bảo vệ của Công ty Hòa Phát Dung Quất) đi tuần tra, phát hiện nên bắt giữ T, còn Đ1, Đ và M chạy thoát. Anh T4 thông báo cho Công an xã Bình Thuận đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T; đến ngày 02/9/2021, các bị cáo M, Đ, Đ1 đến Công an huyện Bình Sơn đầu thú.

Bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2022/HS-ST ngày 03/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Tuyên bố: Các bị cáo: Huỳnh Văn T, Hồ Hữu Đ, Nguyễn Thanh Đ1 và Cao Tấn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn T 03 (Ba) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/9/2021 đến ngày 26/10/2021.

Xử phạt bị cáo Hồ Hữu Đ 03 (Ba) năm 03 (Ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/9/2021 đến ngày 26/10/2021.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Đ1 03 (Ba) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/9/2021 đến ngày 26/10/2021.

Xử phạt bị cáo Cao Tấn M 03 (Ba) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 02/9/2021 đến ngày 08/9/2021.

Ngoài ra, còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 08/3/2022, bị cáo Cao Tấn M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Ngày 08/3/2022, bị cáo Hồ Hữu Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 09/3/2022, bị cáo Huỳnh Văn T, Nguyễn Thanh Đ1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa bị cáo Cao Tấn M giữ nguyên nội dung kháng cáo, bị cáo Huỳnh Văn T, Hồ Hữu Đ, Nguyễn Thanh Đ1 bổ sung kháng cáo xin được hưởng án treo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về việc giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Huỳnh Văn T, Hồ Hữu Đ, Nguyễn Thanh Đ1 và Cao Tấn M về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo Huỳnh Văn T, Nguyễn Thanh Đ1, Cao Tấn M mỗi bị cáo: 03 năm tù; bị cáo Hồ Hữu Đ: 03 năm 03 tháng tù là có phần nghiêm khắc, các bị cáo phạm tội có một phần do sự quản lý tài sản lỏng lẻo của bị hại. Tại phiên tòa, các bị cáo Hồ Hữu Đ, Nguyễn Thanh Đ1 không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới, các bị cáo Huỳnh Văn T, Cao Tấn M cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ gia đình khó khăn, có công với cách mạng. Tuy các bị cáo Hồ Hữu Đ, Nguyễn Thanh Đ1 không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới nhưng mức án Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo có phần nghiêm khắc. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số:

18/2022/HS-ST ngày 03/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi về phần hình phạt đối với các bị cáo. Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn T, Nguyễn Thanh Đ1 từ 18 tháng đến 24 tháng tù, Cao Tấn M từ 12 tháng đến 18 tháng tù, Hồ Hữu Đ từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Luận cứ của Luật sư Huỳnh Ngọc Ất bào chữa cho bị cáo Hồ Hữu Đ:

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Hồ Hữu Đ về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo xuất thân từ gia đình nông dân, hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, thấy việc quản lý tài sản lỏng lẻo của Công ty Hòa Phát nên nảy sinh ý định thực hiện hành vi trộm cắp, sau khi thực hiện hành vi bị cáo đã đến Cơ quan điều tra đầu thú, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết phạm tội chưa đạt cho bị cáo hưởng mức án nhẹ hơn Viện kiểm sát đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Huỳnh Văn T, Hồ Hữu Đ, Nguyễn Thanh Đ1 và Cao Tấn M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 17 giờ ngày 01/9/2021, các bị cáo Huỳnh Văn T, Hồ Hữu Đ, Nguyễn Thanh Đ1 và Cao Tấn M đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là dây cáp điện bằng đồng của Công ty Cổ phần thép Hòa Phát Dung Quất.

Theo Kết luận định giá ngày 06/9/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng huyện Bình Sơn đã kết luận tài sản dây cáp điện bằng đồng mà các bị cáo chiếm đoạt trị giá là 93.829.000 đồng (Chín mươi ba triệu, tám trăm hai mươi chín nghìn đồng).

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Huỳnh Văn T, Hồ Hữu Đ, Nguyễn Thanh Đ1 và Cao Tấn M về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của các bị cáo Huỳnh Văn T, Hồ Hữu Đ, Nguyễn Thanh Đ1 và Cao Tấn M, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại; hoàn cảnh gia đình các bị cáo khó khăn, là lao động chính trong gia đình. Các bị cáo Huỳnh Văn T, Nguyễn Thanh Đ1 và Cao Tấn M phạm tội lần đầu, các bị cáo phạm tội một phần do sự quản lý tài sản lỏng lẻo của bị hại. Xét thấy, mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho các bị cáo có phần nghiêm khắc. Vì vậy, cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với bị cáo Huỳnh Văn T, bị cáo Cao Tấn M: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Huỳnh Văn T cung cấp tài liệu, chứng cứ thể hiện mẹ bị cáo thường xuyên đau ốm, đái tháo đường typ 2, thiếu máu cơ tim, nằm một chỗ, bị cáo là người duy nhất chăm sóc cho mẹ bị cáo; bị cáo Cao Tấn M cung cấp tài liệu, chứng cứ thể hiện cha bị cáo hiện bị ung thư gan đang điều trị tại Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng, mẹ bị cáo già yếu, vợ bị cáo bị biến chứng co giật, não có bất thường, gia đình bị cáo có công với cách mạng. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Tư và bị cáo M cung cấp thêm tình tiết mới, các bị cáo còn có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội. Căn cứ vào Điều 65 Bộ luật hình sự, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giảm một phần hình phạt và cho các bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe các bị cáo; đồng thời thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[3] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là đúng quy định của pháp luật được chấp nhận.

[4] Luật sư bào chữa cho bị cáo Hồ Hữu Đ cho rằng các bị cáo phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, các bị cáo đã chuyển dịch tài sản lên xe nhằm đi tiêu thụ thì bị bắt quả tang nên không được áp dụng quy định về phạm tội chưa đạt. Đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo Hồ Hữu Đ được chấp nhận một phần.

[5] Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c, e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Văn T, bị cáo Cao Tấn M. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Hồ Hữu Đ, bị cáo Nguyễn Thanh Đ1. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2022/HS-ST ngày 03/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi về phần hình phạt đối với các bị cáo.

- Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn T 02 (Hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”; thời gian thử thách là 04 (Bốn) năm kể từ ngày tuyên án (Ngày 06/9/2022).

Xử phạt: Xử phạt bị cáo Cao Tấn M 02 (Hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”; thời gian thử thách là 04 (Bốn) năm kể từ ngày tuyên án (Ngày 06/9/2022).

- Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Hồ Hữu Đ 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/9/2021 đến ngày 26/10/2021.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Đ1 02 (Hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/9/2021 đến ngày 26/10/2021.

Giao bị cáo Huỳnh Văn T, bị cáo Cao Tấn M cho Ủy ban nhân dân xã BD, huyện BS giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án;

Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi các bị cáo cư trú trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự.

2. Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2022/HS-PT

Số hiệu:85/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về