Bản án về tội trộm cắp tài sản số 84/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN N, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 84/2022/HS-ST NGÀY 25/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 25/5/2022, tại trụ sở TAND quận N, TP H, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 74/2022/TLST-HS ngày 18/4/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến T, sinh năm 1998; Giới tính: Nam Nơi ĐKNKTT: Thôn Đ, xã T, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Nguyễn Văn H và bà Trịnh Thị D Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo tại ngoại – Có mặt

Người bị hại: Chị Lê Thị Kiều Tr, sinh năm 2002 – Xin xét xử vắng mặt

Nơi ĐKNKTT: Thôn 2, xã Thiệu Thịnh, huyện T, tỉnh T.

Nơi cư trú: Phòng 1806, tòa S303 V, phường Tây Mỗ, quận N, TP H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị VKSND quận N, TP H truy tố về hành vi phạm tội như sau: Nguyễn Tiến T là nhân viên kỹ thuật công ty cổ phần Vinhomes, làm việc tại khu đô thị Vinhomes Smast City. Ngày 05/01/2022, T đến hầm tòa nhà S303 V để làm việc và dựng xe máy của T khu vực cột A5 thì phát hiện thấy chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đen đỏ, Biển kiểm soát: 36B5-X chìa khóa đang cắm tại ổ khóa và thẻ gửi xe để ở hốc dưới tay lái bên trái. Đến khoảng 9 giờ ngày 15/01/2022, T tiếp tục đến làm việc tại toà S4 (cách hầm gửi xe tòa nhà S303 khoảng 200m) và để xe của mình tại hầm S4 sau đó đi bộ sang hầm S303và vẫn thấy chiếc xe máy biển kiểm soát 36B5-X đang cắm chìa khóa chưa di chuyển chỗ khác nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. T đi đến lấy thẻ xe trong hộc để đồ và mở cốp xe kiểm tra sau đó lấy 01 áo mưa loại chùm đầu ở trong cốp xe mặc vào người (do ngoài trời đang mưa) và nổ máy xe đi qua chốt soát vé, T quẹt thẻ và trả phí gửi xe hết 595.000đ (phí gửi xe ngày từ ngày 28/12/2021 đến 15/01/2022) sau đó T điều khiển xe mang đi rửa xe và mang về cất giấu tại phòng trọ của bạn là Phạm Văn Mạnh tại số 52 ngách 12/43 phố Cầu Cốc, phường Tây Mỗ, quận N, H (do trước đó anh Mạnh về quê và T có mượn phòng để ở), do phòng trọ không có khóa cổng nên sau đó T mua 01 ổ khóa Việt Tiệp khóa cổng lại để không bị mất xe và T đi bộ về khu đô thị V làm việc bình thường.

Đến ngày 18/01/2022, Nguyễn Tiến T nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên đã đến phòng trọ lấy xe và đem xe đến để tại vị trí cũ tại cột A5 hầm tòa nhà S303 V để trả lại (trên đường đi T đã vứt bỏ ổ khóa và chìa khóa cổng tại khu vực đầu ngõ 43 phố Cầu Cốc, phường Tây Mỗ) sau đó T đến công an phường Tây Mỗ đầu thú.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 43 ngày 10/2/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận N, kết luận: 01xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ đen, BKS: 36B5-X trị giá 18.000.000đ.

Tại bản cáo trạng số 82/CT-VKSNTL ngày 11/4/2022 của VKSND quận N, TP H đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Kết thúc phần tranh tụng; Tại phần tranh luận, đại diện VKS đọc bản luận tội đối với bị cáo. Nội dung bản luận tội đã phân tích nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo; Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173 BLHS, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 BLHS; Đề nghị xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng tính từ ngày tuyên án. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự đã được xử lý xong nên đề nghị không xem xét.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng số 82 ngày 11/4/2022 của VKSND quận N đã truy tố bị cáo. Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố và lời luận tội của đại diện VKS đối với bị cáo tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của đại diện VKS. Tại lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Người bị hại đã được triệu tập hợp nhưng xin xét xử vắng mặt. Người bị hại đã có lời khai thể hiện: Sau trộm cắp, bị cáo đã tự nguyện nộp lại tài sản để xử lý trả cho người bị hại, người bị hại đã nhận lại đầy đủ. Người bị hại không có ý kiến hay yêu cầu gì đối với bị cáo và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, HĐXX nhận định: Khoảng 09 giờ ngày 15/01/2021, tại tầng hầm tòa nhà S303 V, phường Tây Mỗ, quận N, H, Nguyễn Tiến T đã có hành vi trộm cắp chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ đen, BKS: 36B5-X trị giá 18.000.000đ của chị Lê Thị Kiều Tr. Sau khi trộm cắp, bị cáo đã tự nguyện nộp lại tài sản để trả cho người bị hại. Chị Tr không có yêu cầu bồi thường về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Xét cáo trạng truy tố và lời trình bày luận tội của đại diện VKS tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an, gây hoang mang lo lắng nơi xảy ra tội phạm.

Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Tính đến ngày phạm tội, bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng. Sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, tự nguyện giao nộp lại chiếc xe trộm cắp để xử lý trả cho người bị hại nhằm khắc phục hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra. Người bị hại đã nhận lại xe và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo T khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. HĐXX áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Từ phân tích và nhận định trên, xét cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo đã gây ra. Do bị cáo lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng lại được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, nên không cần bắt bị cáo phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản trộm cắp đã được trả cho người bị hại. Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo nên HĐXX không xét.

Về xử lý vật chứng: HĐXX không xem xét.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Nguyễn Tiến T 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho UBND xã T, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa nơi bị cáo cư trú để giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của BLHS.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng: HĐXX không xem xét. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí HSST.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 84/2022/HS-ST

Số hiệu:84/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về