Bản án về tội trộm cắp tài sản số 80/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 80/2021/HS-ST NGÀY 23/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 11 năm 2021, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 86/2021/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Th, sinh năm 1969, tại tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Thôn 1, xã G , huyện T, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (chết) và con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1962; bị cáo có vợ Trần Thị V, sinh năm 1970 và 02 con lớn nhất sinh năm 2000 nhỏ nhất sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 24/8/2021- Có mặt

- Bị hại: Anh Lê Văn A, sinh năm 2001 – vắng mặt Địa chỉ: Thôn Q, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lê Thị B, sinh năm 2000 – vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Q, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Th từ tỉnh Bình Thuận đến xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông vào năm 2000, làm thuê, sống lang thang, không đăng ký tạm trú, tạm vắng. Khoảng 09 giờ sáng ngày 24/8/2021, T đi bộ ra khu vực Bưu điện xã N thì phát hiện sát lề đường phía trước cổng Bưu điện có chiếc xe mô tô nhãn hiệu HonDa, loại Blade, màu sơn đen- trắng, BKS: 48H1-134.41 của anh Lê Văn A (sinh năm 2001; trú tại thôn Q, xã N, huyện Đ) đang còn chìa khóa cắm trên xe nên đã lấy trộm chiếc xe rồi điều khiển chạy về hướng xã Đ, huyện Đ. Sau khi bị Th lấy trộm xe thì anh A ra phát hiện xe bị mất nên trình báo công xã N. Nhận tin báo công an xã N phối hợp với đội Cảnh sát giao thông Công an huyện Đ chốt chặn, bắt giữ Th cùng tang vật tại khu vực đường liên thôn xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông.

Tại bản cáo trạng số 84/Ctr-VKS ngày 26 tháng 10 năm 2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn Th về tội“Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo về tội“Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng, không oan.

Kết quả tranh luận tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Sau khi xem xét các chứng cứ buộc tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”, áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th từ 09 tháng đến 12 tháng tù, Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị HĐXX chấp nhận quyết định xử lý vật chứng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đắk R’Lấp đã trả lại chiếc xe BKS: 48H1-134.41 cho chị Lê Thị B.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản chị Lê Thị B và anh Lê Văn A không yêu cầu bồi thường gì nên không đề cập xử lý Tại phiên toà bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, xác định: Vào khoảng 09 giờ ngày 24-8- 2021 tại thôn Q , xã N, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông, bị cáo Nguyễn Văn Th đã có hành vi lén lút trộm cắp của anh Lê Văn A 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HonDa, loại Blade, màu sơn trắng – đen, BKS: 48H1 -134.41, trị giá 14.350.000 đồng (Mười bốn triệu ba trăm năm mươi ba nghìn đồng). Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

Xét hành vi của bị cáo gây ra là ít nguyên trọng, bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhưng với ý thức coi thường pháp luật bị cáo đã có hành vi trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của người khác, mặt khác còn làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. HĐXX xem xét và giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Lê Văn A và chị Lê Thị B không có yêu cầu gì nên không đề cập giải quyết.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đắk R’Lấp đã trả là chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp nên không đề cập.

Xét đề nghị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh mức hình phạt đối với bị cáo và về xử lý vật chứng là có căn cứ cần chấp nhận.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 24/8/2021.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn Th phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 80/2021/HS-ST

Số hiệu:80/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về