Bản án 76/HSST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 76/HSST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 61/2020/HSST ngày 22/04/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/QĐXXST-HS ngày 4/5/2020, đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Đỗ Văn Q (Tên gọi khác: Không) sinh năm 1974. HKTT: Số 3/448 W, thị trấn N, K, Hà Nội. Nơi ở: Thôn M, xã N, K, Hà Nội. Nghề nghiệp: E do Văn hóa: 08/12. Bố: Đỗ Văn E (đã mất 1993). Mẹ: Phạm Thị E sinh năm 1927. Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ sáu. Vợ: Chưa.

Tiền án, tiền sự: 01 tiền án.

- Năm 2017, Tòa án nhân dân quận B xử phạt 03 tháng 04 ngày tù đối với Đỗ Văn Q về tội Không tố giác tội phạm. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/8/2017. (Chưa xóa án tích).

Bị cáo bị bắt ngày 31/01/2020, theo Quyết định truy nã số 05, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện K. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Đức V (Tên gọi khác: Không) sinh năm: 1981. Nơi cư trú: Thôn X, C, K, Hà Nội. Nghề nghiệp: E do. Văn hóa: 12/12. Bố: Nguyễn Đức T (đã mất). Mẹ: Nguyễn Thị Minh T sinh năm 1957. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Vợ: Nguyễn Thị Minh N sinh năm 1981. Bị cáo có 02 người con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2015.

Tiền án, tiền sự: 02 tiền án:

- Năm 2018, Tòa án nhân dân huyện K xử 12 tháng tù cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản. (Chưa xóa án tích);

- Năm 2019, Tòa án nhân dân quận B xử 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. (Chưa xóa án tích);

Nhân thân:

- Năm 2008, Tòa án nhân dân quận B xử 24 tháng tù cho hưởng án treo về tội Đánh bạc.

Bị cáo hiện đang chấp hành án, theo bản án bản án số 253/2019/HSST, ngày 11/10/2019 của Tòa án nhân dân quận B, Hà Nội có hiệu lực pháp luật, tại Trại giam Ngọc Lý – Bộ Công an. Có mặt tại phiên tòa.

*Người bị hại:

1. Công ty TNHH nhựa J. Đại diện theo pháp luật anh Bùi Văn Ngọc – Giám đốc. Đại diện theo ủy quyền anh Nguyễn Khánh S. Xin xử vắng mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ chuyên nghiệp Z. Đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Huy Đ – chức vụ giám đốc. Đại diện theo ủy quyền anh Nguyễn Khánh S. Xin xử vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 09h00 ngày 28/7/2019, Công an đồn Đ – Công an huyện K nhận được đơn trình báo của anh Nguyễn Khánh S (Sinh 1991 trú tại thôn N, N, K, Hà Nội) về việc Đỗ Văn Q là bảo vệ của Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ chuyên nghiệp Z khi bảo vệ kho hàng hạt nhựa của Công ty TNHH nhựa J tại Ninh Hiệp, K, Hà Nội đã có hành vi lấy trộm 60 bao hạt nhựa có khối lượng tổng 1500kg; đồng thời giao nộp cho cơ quan công an: Biên bản vi phạm của Công ty Z làm việc với Đỗ Văn Q; bản tường trình, bản cam kết của Đỗ Văn Q và 01 USB trong đó có video về việc Đỗ Văn Q khai nhận về toàn bộ hành vi của mình. (BL 83) Kết luận giám định số 5329/C09-P6 ngày 24/09/2019 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Không phát hiện dấu hiệu cắt dán, chỉnh sủa nội dung trong file video gửi giám định. Viện khoa học hình sự đã chuyển nội dung cuộc hội thoại trong file video gửi giám định thành văn bản, trong đó Đỗ Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi lấy tài sản của mình. (BL 57, 58, 59) Kết luận định giá tài sản số 117/KL-HĐĐG ngày 03/9/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng huyện K kết luận: 1500 kg hạt nhựa nguyên sinh POLYPROPYLENE PP S1003 sản xuất tại Thái Lan, nhập khẩu Singapore, mới 100% tại thời điểm bị trộm cắp có giá trị 44.692.500 đồng. (BL 52, 53 ) Theo Đỗ Văn Q khai nhận: Tối ngày 15/06/2019, Q nảy sinh ý định trộm cắp hạt nhựa trong kho nhựa J nơi Q làm bảo vệ nên khoảng 22h00 cùng ngày, Q gọi điện thoại cho Nguyễn Đức V và bảo đến chở hàng cho Q. Q chỉ đường cho V đến cây xăng cũ gần đường cao tốc ở Ninh Hiệp. Sau khi V đến Q đi xe máy ra đón, tại đây Q nói với V về ý định trộm cắp của mình và Q bảo V sau khi trộm xong V cứ chở đi đâu cất rồi tính sau. V đồng ý và đi cùng Q đến kho nhựa. Khi đến kho nhựa, Q đứng trong bốt bảo vệ và bảo V đi sang bốt đối diện, với tay vào trong dập cầu dao và V làm theo. Sau khi dập cầu dao thì đèn điện xung quanh kho và camera xung quanh đã bị tắt. Lúc này Q mở của cho V để đi xe ba gác vào. Q cùng V bốc khoảng 30 bao hạt nhựa lên xe của V. Do xe bị đầy không thể chở thêm nên Q bảo V cứ đem đi cất xong quay lại chở chuyến nữa. Khoảng 30 phút sau V quay lại cả hai tiếp tục bốc khoảng 30 bao hạt nhựa còn lại trên pallet lên xe V. Sau đó V chở đi cất còn Q tiếp tục tại kho đến hết ca đến 18h ngày 16/06/2019 thì mới về. Sau đó, Q có liên lạc với V để hỏi V cất hàng ở đâu nhưng không liên lạc được. Khoảng vài ngày sau đó, khi liên lạc được với V thì V nói đã bán số hàng trộm cắp được và hẹn Q ra khu vực gần AEON MALL B để gặp nhau. Khi gặp mặt, V đưa cho Q 5.000.000 đồng và nói đây là tiền bán hạt nhựa trộm được. Do sự việc đã xong nên Q đồng ý nhận.

Theo Nguyễn Đức V khai nhận: Khoảng 21 giờ ngày 15/6/2019, khi V đang ở nhà thì Q có gọi điện thoại và bảo V đến chở cho Q ít hàng. Q chỉ đường cho V đi xe ba gác đến và gặp Q ở cây xăng trong khu công nghiệp Ninh Hiệp gần đường cao tốc 1B. Tại đây, Q nói với V là Q làm bảo vệ kho hạt nhựa, Q rủ V trộm cắp hạt nhựa trong kho, khi trộm được V cứ mang đi cất rồi tính sau. V đồng ý và đi cùng Q đến kho hạt nhựa. Khi đến nơi, Q bảo V ra dập cầu dao. Lúc này, V hiểu mục đích dập cầu dao là để ngắt điện tắt đèn chiếu sáng, tắt camera theo dõi, tránh công ty phát hiện. V làm theo lời Q. Sau đó, V và Q cùng bốc các bao hạt nhựa trên palet gỗ lên xe ba gác của V. Lần đầu Q và V bốc khoảng 30 bao thì đầy xe. V chở lên đường 1B cách kho hàng khoảng 03km thì V bốc hạ số bao này xuống rìa đường và phủ bạt đậy lại. Rồi V quay lại chỗ Q bốc nốt khoảng 30 bao còn lại trên pallet gỗ ( tổng cộng bốc khoảng 60 bao hàng). V chở thẳng số bao hạt nhựa lần thứ 2 bốc lên một bãi xe gần ngã tư AEON MALL B và gửi ở đó. Sau đó V quay lại đường 1B để lấy nốt số bao hạ để ở rìa đường và chở về bãi xe trên. Vài ngày sau, V cho Q biết địa chỉ gửi số bao hạt nhựa trộm cắp trên, Q có nói sau khi bán được hàng sẽ cho V 5.000.000 đồng. V không đến lấy số hàng trên và cũng chưa nhận được số tiền mà Q hứa sẽ chia cho mình.

Cơ quan điều tra đã tổ chức cho nhân chứng Phạm Trung N1 (SN: 1992, trú tại Bãi trông giữ xe tại ngã tư AEON MALL, B, Hà Nội) nhận dạng ảnh đối tượng đã đi xe ba gác gửi hàng và đối tượng nào đã đến lấy số hàng đã gửi tại bãi trông giữ xe do anh quản lý tại ngã tư AEON MALL vào ngày 16/06/2019. Kết quả: anh N1 nhận ra Nguyễn Đức V là đã đi xe ba gác xin để nhờ hàng tại bãi gửi xe do anh trông giữ vào rạng sáng ngày 16/6/2019 và là người đã đến lấy số hàng đã gửi vào khoảng 06h00 ngày 16/6/2019.

Về phần dân sự, Nguyễn Khánh S là đại diện của Công ty J và công ty Z cho biết gia đình Q đã bồi thường thiệt hại cho công ty và hiện không còn đề nghị gì khác. Anh S cũng xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Đỗ Văn Q và Nguyễn Đức V. (BL 79, 80) Tại bản cáo trạng số 63/CT- VKSGL ngày 17/4/2020 của VKSND huyện K truy tố bị cáo Đỗ Văn Q và Nguyễn Đức V về tội “ Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 2 Điều 173 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Văn Q và Nguyễn Đức V thừa nhận: Khoảng 21 giờ ngày 15/6/2019, khi V đang ở nhà thì Q có gọi điện thoại và bảo V đến chở cho Q ít hàng. Q chỉ đường cho V đi xe ba gác đến và gặp Q ở cây xăng trong khu công nghiệp Ninh Hiệp gần đường cao tốc 1B. Tại đây, Q nói với V là Q làm bảo vệ kho hạt nhựa, Q rủ V trộm cắp hạt nhựa trong kho, V đồng ý. Khi đến kho, Q bảo V ra dập cầu dao. V làm theo lời Q và cùng Q bốc các bao hạt nhựa lên xe ba gác của V. Cả hai lấy được 60 bao tải đựng hạt nhựa. V chở lên một bãi xe gần ngã tư AEON MALL B và gửi ở đó. Sau đó V liên hệ bán cho người không quen biết là người mua đồng lát được 9.500.000đồng. Khoảng 2-3 ngày sau thì V hẹn gặp Q ở khu vực AEON MALL B và đưa cho Q 5.000.000đồng. Bị cáo giữ 4.500.000đồng. Các bị cáo thừa nhận mục đích trộm cắp bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Hiện Q và gia đình Q đã khắc phục trả lại giá trị hạt nhựa cho Công ty Z là đại diện bồi thường cho Công ty J. Tại tòa, Q cũng không yêu cầu V phải thanh toán số tiền đáng ra V phải cùng có trách nhiệm bồi thường giá trị tài sản mà Q và V đã trộm cắp nêu trên. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K, luận tội nêu rõ: ngày 15/6/2019, Đỗ Văn Q và Nguyễn Đức đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là 1500 kg hạt nhựa nguyên sinh POLYPROPYLENE PP S1003 sản xuất tại Thái Lan, nhập khẩu Singapore, mới 100% tại thời điểm bị trộm cắp có giá trị 44.692.500 đồng, đủ cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Nhân thân của các bị cáo đã có tiền án, cả hai bị cáo phạm tội lần này là tái phạm. Các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo Q và gia đình đã E nguyện khắc phục toàn bộ hậu quả cho người bị hại và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy đề nghị: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1Điều 51, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58, khoản 1 Điều 56; Điều 38; Điều 17 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đỗ Văn Q từ 28 -32 tháng tù, hạn tù tính từ ngày bắt 22/01/2020; Xử phạt Nguyễn Đức V từ 24 -28 tháng tù. Buộc Nguyễn Đức V phải chịu tổng hợp hình phạt phạt 24 tháng tù, theo bản án số 253/2019/HSST, ngày11/10/2019 của Tòa án nhân dân quận B có hiệu lực pháp luật. Tổng hợp bản án buộc Nguyễn Đức V phải chấp hành hình phạt chung từ 48-52 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 24/7/2019. (Ngày bắt theo bản án số số 253/2019/HSST, ngày11/10/2019).

Dân sự: Không.

Không phạt bổ sung đối với bị cáo. Vật chứng: Không.

Lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Ngày 15/6/2019, Đỗ Văn Q và Nguyễn Đức V đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là 1500 kg hạt nhựa nguyên sinh POLYPROPYLENE PP S1003 sản xuất tại Thái Lan, nhập khẩu Singapore, mới 100% tại thời điểm bị trộm cắp có giá trị 44.692.500 đồng. Như vậy, hành vi của các bị cáo đủ cấu thành tội Trộm cắp tài sản.

[2] Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó Đỗ Văn Q là kẻ chủ mưu, thực hành tích cực. Nguyễn Đức V là kẻ thực hành tích cực.

[3] Qúa trình tiến hành tố tụng các cơ quan tố tụng thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký tòa án nên Hội đồng xét xử không phải xem xét.

[4] Hành vi của của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được luật hình sự bảo vệ. Các bị cáo vì mục đích tư lợi cá nhân thực hiện tội phạm.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Nhân thân của các bị cáo đã có tiền án, cả hai bị cáo phạm tội lần này là tái phạm. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo mức án trong khung hình phạt, cách ly bị cáo ngoài xã hội một thời gian mới đủ cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Song khi lượng hình cũng xem xét cho bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối lỗi tại phiên tòa, hậu quả xảy ra bị cáo Q và gia đình đã E nguyện khắc phục toàn bộ hậu quả cho người bị hại và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Q và bị cáo V.

Về hình phạt bổ sung: Không.

[6] Dân sự: Không.

Đi với trách nhiệm của bị cáo V liên đới bồi thường dân sự cùng với bị cáo Q, song tại tòa hôm nay bị cáo Q không yêu cầu V phải có nghĩa vụ cùng Q bồi thường giá trị tài sản mà Q và V đã trộm cắp nên không phải xem xét giải quyết.

[7]. Vật chứng: Không.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo luật.

Vì các lẽ trên”.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn Q và Nguyễn Đức V phạm tội “Trộm cắp tài sản"

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38; Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Các Điều 106; Điều 331; Điều 333; Điều 336 BLTTHS 2015.

Xử phạt: Đỗ Văn Q 30 (ba mươi) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt 31/01/2020.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58; khoản 1 Điều 56; Điều 38; Điều 17 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Các Điều 106; Điều 331; Điều 333; Điều 336 BLTTHS 2015.

Xử phạt: Nguyễn Đức V 28 (hai mươi tám) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Buộc Nguyễn Đức V phải chịu tổng hợp hình phạt 24 tháng tù, theo bản án số 253/2019/HSST, ngày11/10/2019 của Tòa án nhân dân quận B có hiệu lực pháp luật. Tổng hợp bản án buộc Nguyễn Đức V phải chấp hành hình phạt chung là 52 (năm mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 24/7/2019. (Ngày bắt theo bản án số số 253/2019/HSST, ngày11/10/2019 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hà Nội có hiệu lực pháp luật).

Không phạt bổ sung: Không.

Dân sự: Không.

Vật chứng: Không.

2- Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, E nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

504
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/HSST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:76/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về