Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 79/2023/HS-ST NGÀY 29/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 29/06/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số: 82/2023/TLST-HS ngày 08/06/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2023/QĐ-TA ngày 16/06/2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Anh T, sinh ngày 16/01/2007.

HKTT: Thôn X, xã K, huyện S, thành phố HN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc:

Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Học sinh; con ông Nguyễn Hữu D, sinh năm 1985; con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1987; Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ, con:

chưa có.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 06/03/2023 đến nay. Hiện bị cáo tại ngoại tại địa phương (có mặt tại phiên tòa).

2. Nguyễn Quang B, sinh ngày 13/02/2006.

HKTT: Thôn X, xã K, huyện S, thành phố HN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Học sinh; con ông Nguyễn Quang G, sinh năm 1980; con bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1984; Gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Vợ, con: chưa có.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 06/03/2023 đến nay. Hiện bị cáo tại ngoại tại địa phương (có mặt tại phiên tòa).

- Đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Anh T: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1987; Trú tại: Thôn X, xã K, huyện S, thành phố HN (có mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo Nguyễn Anh T: Bà Đặng Thị H - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bắc Ninh, Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh (có mặt).

- Đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Quang B: Ông Nguyễn Quang G, sinh năm 1980; Trú tại: Thôn X, xã K, huyện S, thành phố HN (có mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo Nguyễn Quang B:

Bà Phan Thị Thu Hương - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bắc Ninh, Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh (có mặt).

- Bị hại: Chị Lò Thị H, sinh năm 1994; Trú tại: Bản N, NT, C, sông M, S (xin xét xử vắng mặt).

- Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Nguyễn Thúy V, sinh năm 1989; Trú tại: Thôn X, xã K, huyện S, thành phố HN (xin xét xử vắng mặt).

+ Anh Nguyễn Tiến S, sinh năm 2001; Trú tại: Thôn X, xã K, huyện S, thành phố HN (xin xét xử vắng mặt).

+ Anh Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 03/03/2006; Trú tại: Thôn X, xã K, huyện S, thành phố HN (xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 02/3/2023, tại khu đô thị M, thị trấn C, huyện Y, tổ tuần tra, công tác của Công an huyện Yên Phong phát hiện Nguyễn Quang B, sinh ngày 13/02/2006 và Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 03/03/2006 đều cư trú tại Thôn X, xã K, huyện S, thành phố HN, đang điều khiển xe mô tô nhãn hiện honda, loại xe Wave, màu cam, số máy: 323615, số khung: 452488, không đeo biển kiểm soát, có biểu hiện nghi vấn trộm cắp tài sản. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, phát hiện và thu giữ 01 tay công chữ L bằng kim loại, 01 mũi vam bằng kim loại một đầu lục giác, một đầu hình dẹt hai cạnh, số tiền 1.500.000 đồng trong túi Nguyễn Thành Đ (B và Đ khai nhận đây là công cụ để trộm cắp xe mô tô và số tiền bán xe trộm cắp mà có được). Lực lượng Công an đã lập biên bản kiểm tra và đưa Nguyễn Quang B và Nguyễn Thành Đ về trụ sở để làm việc.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong, B và Đ khai nhận trong tháng 2/2023 đã cùng với Nguyễn Anh T sinh ngày 16/01/2007 ở cùng thôn với B và Đ đã thực hiện các vụ trộm cắp xe mô tô trên địa bàn huyện Y.

Cụ thể: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 14/2/2023, do thiếu tiền tiêu xài nên T và B rủ nhau đi trộm cắp xe mô tô tại huyện Y, tỉnh B. Khi đi, T mang theo 01 tay công hình chữ L và 01 mũi vam dẹt để trộm cắp tài sản. B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen, không đeo biển kiểm soát của T (T khai đây là xe T mượn của Nguyễn Hữu M, sinh năm 2003 ở cùng thôn với T và B), chở T đi từ chùa thôn X, xã K, huyện S qua cầu Đ, theo đường tỉnh lộ 286 sang địa bàn huyện Y. Khi đi đến cửa hàng bán bánh sinh nhật P thuộc thôn Đ, xã ĐP, huyện Y do chị Trần Thị L, sinh năm 1975, đăng ký hộ khẩu thường trú ở thôn T, xã Q, huyện K, tỉnh T làm chủ. T và B nhìn thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS: 26C1 – 275.xx của Chị Lò Thị H sinh năm 1994 ở thôn N, xã C, huyện Sông M, tỉnh S, đang dựng trên vỉa hè trước cửa hàng. Thấy không có người trông coi nên T nói với B “có xe”. Nghe vậy, B hiểu ý là sẽ trộm cắp chiếc xe mô tô này nên khi đi qua chiếc xe Wave trắng của chị H khoảng 10 mét thì B điều khiển xe quay lại, đỗ đối diện với chiếc xe của chị H ở bên kia đường. Sau đó, B đứng cảnh giới còn T đi bộ sang đường đến vị trí chiếc xe của chị H. T dùng tay công chữ L và mũi vam dẹt phá được ổ khoá điện. Sau đó, T ngồi lên xe, đề nổ máy rồi phóng xe chạy theo đường Tỉnh lộ 286 về huyện S. B điều khiển xe của T chạy theo sau. Khi về đến thôn X, xã K, huyện S, T mang xe đến nhà Nguyễn Hữu M để bán chiếc xe vừa trộm cắp được. M đồng ý mua chiếc xe với giá 5.000.000 đồng nhưng hẹn vài hôm sau sẽ trả tiền. Ngày hôm sau, M trả tiền mua xe cho T. M trừ 1.300.000 đồng tiền mượn xe, tiền trông xe và tiền bán hộ xe cho T, nên chỉ đưa cho T số tiền 3.700.000 đồng. Số tiền này T chia cho B 2.500.000 đồng còn T được 1.200.000 đồng. Số tiền trên T và B tiêu sài cá nhân hết.

Sau khi bị trộm cắp chiếc xe mô tô, Chị Lò Thị H không trình báo sự việc đến Cơ quan có thẩm quyền. Ngày 05/3/2023, sau khi được thông báo, chị đã đến Công an huyện Yên Phong trình báo sự việc.

Ngày 04/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong ra yêu cầu định giá tài sản số 19 trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Yên Phong định giá chiếc xe mô tô Honda Wave mà B và T đã trộm cắp của Chị Lò Thị H.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 13 ngày 06/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Yên Phong kết luận: 01 chiếc xe mô tô Honda Wave, màu trắng, BKS: 26C1 -275.xx (đã qua sử dụng) tại thời điểm xảy ra vụ việc có giá trị 18.500.000 (mười tám triệu năm trăm nghìn đồng).

Ngoài vụ trộm cắp xe nêu trên ở địa bàn huyện Y, khoảng 8 giờ vào một ngày giữa tháng 2/2023, Nguyễn Quang B và Nguyễn Thành Đ còn trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng (Đ và B không nhớ biển kiểm soát) đang dựng trước cửa hàng T ở thôn N, thị trấn C, huyện Y, tỉnh B của bà Lê Thị T, sinh năm 1972, đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn D, xã H, huyện Y, tỉnh B. Sau đó, B mang chiếc xe này bán cho Nguyễn Hữu M được 3.000.000 đồng. B chia cho Đ 1.500.000 đồng. B đã tiêu sài hết số tiền này. Còn số tiền 1.500.000 đồng của Đ đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong tạm giữ vào ngày 02/3/2023.

Quá trình điều tra mở rộng Nguyễn Quang B, Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Anh T còn khai nhận đã thực hiện 03 vụ trộm cắp xe mô tô trên địa bàn thành phố T, tỉnh B. Cụ thể:

Vụ thứ nhất Khoảng 19 giờ 30 phút, một ngày cách ngày 14/02/2023 khoảng 1 tuần, tại phường Đ, thành phố T, Nguyễn Quang B cùng Nguyễn Anh T, Nguyễn Thành Đ và một nam thanh niên tên là M (M là bạn xã hội của T, T không biết M tên tuổi là gì và ở đâu) đã trộm cắp 01 xe mô tô Honda Wave màu trắng dựng ở trước vỉa hè cách cột đồng hồ 50 mét.

Vụ thứ hai : Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 28/02/2023, tại phường Đ, thành phố T, Nguyễn Quang B, Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Tiến Q sinh năm 2004 ở thôn X, xã K, huyện S và Minh trộm cắp 01 chiếc xe mô tô Honda Wave màu trắng.

Vụ thứ ba : Khoảng 8 giờ 30 phút, một ngày cuối tháng 02/2023, tại phường Đ, thành phố T, Nguyễn Quang B và Nguyễn Anh T đã trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng dựng trên vỉa hè cạnh Ngân hàng Vietcombank Chi nhánh T.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong đã có Công văn trao đổi với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Từ Sơn để điều tra, giải quyết theo thẩm quyền. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Từ Sơn đã xác minh, rà soát trên địa bàn nhưng chưa tìm được người bị hại có liên quan.

Về vật chứng thu giữ và xử lý vật chứng : Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra còn tạm giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu cam, không đeo biển kiểm soát, 01 chiếc chìa khóa xe mô tô và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone 7 plus, số imel 359473086300205.

Đối với chiếc xe mô tô Honda Wave màu cam, chiếc xe đăng ký biển số 29S6- 809.xx. Đây là xe mô tô của Chị Nguyễn Thúy V, sinh năm 1989 trú tại thôn X, xã K, huyện S là chị gái của Nguyễn Thành Đ. Khi lấy xe để đi trộm cắp, Đ không nói cho chị V biết mà tự ý lấy xe đi. Quá trình điều tra chị V có đơn xin lại chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại. Hiện chiếc xe đang được bảo quản tại kho vật chứng Công an huyện Yên Phong.

Đối với chiếc điện thoại di động iphone 7 plus là điện thoại của Anh Nguyễn Tiến S, sinh năm 2001, trú tại thôn X, xã K, huyện S là anh trai của Nguyễn Thành Đ. Anh S cho Đ mượn chiếc điện thoại này để liên lạc hàng ngày. Hiện chiếc điện thoại đang được bảo quản tại kho vật chứng Công an huyện Yên Phong.

Đối với chiếc tay công chữ L và chiếc vam 02 đầu là của Nguyễn Quang B, B chuẩn bị để đi trộm cắp tài sản.

Đối với số tiền 1.500.000 đồng là tiền bán chiếc xe mô tô mà B và Đ khai nhận đã trộm cắp của thôn N thị trấn C, B chia lại cho Đ mà có.

Về bồi thường dân sự:

Chị Lò Thị H đã được gia đình của Nguyễn Quang B và Nguyễn Anh T bồi thường số tiền 16.000.000 đồng. Chị không yêu cầu B và T phải bồi thường gì thêm về dân sự.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong, Nguyễn Anh T và Nguyễn Quang B đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Với hành vi trên tại bản Cáo trạng số 69/CT-VKSYP ngày 29/05/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong đã truy tố bị cáo: Nguyễn Quang B, Nguyễn Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Quang B, Nguyễn Anh T cùng lần lượt khai nhận: Nội dung bản cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng, các bị cáo có thực hiện những hành vi như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Các bị cáo thừa nhận khoảng 18 giờ 30 phút ngày 14/02/2023, tại trước cửa hàng bán bánh sinh nhật P thuộc thôn Đ, xã ĐP huyện Y, tỉnh B. Hai bị cáo cùng rủ nhau đi trộm cắp và đã trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS 26C1 – 275.xx trị giá 18.500.000đ. Sau này hai bị cáo mới biết của Chị Lò Thị H, sinh năm 1994; trú tại: Bản N, NT, C, sông M, S. Khi đi trộm cắp hai bị cáo sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu cam, không đeo biển kiểm soát mượn của Chị Nguyễn Thúy V, sinh năm 1989; trú tại: Thôn X, xã K, huyện S, thành phố HN. Hai bị cáo thừa nhận hành vi của mình là phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Quang B là ông Nguyễn Quang G trình bày: Bị cáo B là con của ông, hành vi của cháu B thực hiện như bảo Cáo trạng mô tả là đúng, do điều kiện vợ chồng phải làm ăn nên không quan tâm để ý đến cháu. Nay sự việc xảy ra, bị hại đã nhận được xe máy do vậy ông đề nghị HĐXX xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Sau khi sự việc xảy ra gia đình đã tự nguyện bồi thường giá trị một phần chiếc xe cho bị hại. Nay số tiền này ông không yêu cầu bị cáo B phải trả lại cho ông.

- Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Anh T là bà Nguyễn Thị L trình bày: Bị cáo Nguyễn Anh T là con của bà, hành vi của cháu T thực hiện như bảo Cáo trạng mô tả là đúng. Nay sự việc xảy ra, bà nhận thấy trách nhiệm của gia đình dẫn đến cháu T phạm tội. Bà đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật và bà không có ý kiến gì. Sau khi sự việc xảy ra gia đình đã tự nguyện bồi thường giá trị một phần chiếc xe cho bị hại. Nay số tiền này bà không yêu cầu bị cáo B phải trả lại cho bà.

- Quá trình điều tra và tại đơn xin xét xử vắng mặt, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là:

+ Chị Nguyễn Thúy V trình bày: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu cam, không đeo biển kiểm soát mà hai bị cáo B và T sử dụng để đi trộm cắp là của chị mang BKS 29S6-809.xx. Chị để xe ở nhà, khi em trai của chị là Nguyễn Thành Đ mượn xe đi trộm cắp thì Đ không nói cho chị biết nên chị không biết. Nay chị xin HĐXX trả lại chiếc xe trên cho chị để lấy phương tiện đi lại.

+ Anh Nguyễn Tiến S trình bày: Anh là anh trai cuả Nguyễn Thành Đ, anh đã cho Đ mượn chiếc điện thoại di động iphone 7 plus để liên lạc hàng ngày với gia đình. Anh không biết việc Đ sử dụng chiếc điện thoại này vào việc trộm cắp, nay đối với chiếc điện thoại này do không còn nhu cầu sử dụng nên anh đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

+ Anh Nguyễn Thành Đ trình bày: Nội dung sự việc như bản Cáo trạng là đúng, số tiền 1.500.000đ bị thu giữ đúng là tiền bán chiếc xe mô tô mà B và Đ đã trộm cắp được tại thôn N, thị trấn C, huyện Y, tỉnh B mà có. Chiếc điện thoại di động iphone 7 plus anh mượn của anh Đ anh có sử dụng để liên lạc với B, T rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Đối với số tiền này tôi đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Quá trình điều tra, tại đơn xin xét xử vắng mặt bị hại là Chị Lò Thị H trình bày: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 14/02/2023, tại trước cửa hàng bán bánh sinh nhật P thuộc thôn Đô, xã ĐP, huyện Y, tỉnh B. Nguyễn Anh T và Nguyễn Quang B đã trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS 26C1 – 275.xx của tôi. Sau khi sự việc xảy ra đến nay hai bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường cho tôi tổng số tiền tương đương giá trị chiếc xe của tôi bị trộm cắp là 16.000.000đ. Do vậy đến nay về trách nhiệm dân sự tôi không yêu cầu hai bị cáo Nguyễn Anh T và Nguyễn Quang B phải bồi thường gì thêm, về trách nhiệm hình sự tôi đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo.

Đại diện VKSND huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố theo bản Cáo trạng số 69/CT-VKS ngày 29/05/2023. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang B, Nguyễn Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 58; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 96 Bộ luật hình sự: Áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại Trường giáo dưỡng đối với Nguyễn Anh T với thời hạn từ 14 tháng đến 16 tháng. Thời gian chấp hành được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ để đưa vào trường giáo dưỡng. Miễn phạt bổ sung cho bị cáo T.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 58; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 96 Bộ luật hình sự: Áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại Trường giáo dưỡng đối với Nguyễn Quang B với thời hạn từ 12 tháng đến 14 tháng. Thời gian chấp hành được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ để đưa vào trường giáo dưỡng. Miễn phạt bổ sung cho bị cáo B.

* Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho Chị Nguyễn Thúy V, sinh năm 1989; Trú tại: Thôn X, xã K, huyện S, thành phố HN chiếc xe mô tô Honda Wave màu cam, chiếc xe đăng ký biển số 29S6-809.xx và một chiếc chìa khóa xe mô tô.

- Tịch thu sung Ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone 7 plus, số imel 359473086300205.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.500.000đ (một triệu lăm trăm nghìn đồng) đang được nộp bảo quản tại kho bạc Nhà nước huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 tay công chữ L bằng kim loại.

+ 01 mũi vam bằng kim loại một đầu lục giác, một đầu hình dẹt hai cạnh.

- Lưu trong hồ sơ 01 đĩa CD hỏi cung các bị can.

- Tại phiên tòa hôm nay, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Quang B là bà Phan Thị Thu Hương trình bày: Qua nghiên cứu hồ sơ, dựa trên kết quả thẩm tra công khai tại phiên tòa bà đồng ý với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa và đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo B mức án nhẹ nhất.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Anh T là bà Đặng Thị H trình bày: Qua nghiên cứu hồ sơ, dựa trên kết quả thẩm tra công khai tại phiên tòa bà đồng ý với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa và đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo T mức án nhẹ nhất.

- Bị cáo B và đại diện hợp pháp của bị cáo B không có ý kiến gì tranh luận và bị cáo B không có ý kiến gì khi được nói lời sau cùng.

- Bị cáo T và đại diện hợp pháp của bị cáo T không có ý kiến gì tranh luận và bị cáo T không có ý kiến gì khi được nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản nhận dạng, biên bản dẫn giải, tang vật thu hồi được và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 14/2/2023, tại trước cửa hàng bán bánh sinh nhật P thuộc thôn Đ, xã ĐP, huyện Y Nguyễn Anh T và Nguyễn Quang B đã trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS: 26C1 – 275.xx của Chị Lò Thị H có trị giá 18.500.000 đồng. T đem bán chiếc xe được 3.700.000 đồng. T chia cho B 2.500.000 đồng còn T được 1.200.000 đồng. Số tiền trên T và B tiêu sài cá nhân hết. Chiếc xe trên chưa được thu hồi và trả lại cho Chị Lò Thị H. Do vậy bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong đã truy tố các bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án tuy là ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của hai bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu riêng về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý hoang mang, lo lắng cho người có tài sản, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Hai bị cáo phạm tội vào ban ngày, ở nơi có dân cư đông đúc, điều đó thể hiện sự liều lĩnh, manh động, coi thường pháp luật của các bị cáo. Tuy nhiên khi thực hiện hành vi phạm tội cả 2 bị cáo đều dưới 18 tuổi, các bị cáo tuổi đời còn trẻ, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên cần áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là phù hợp.

Xét về vai trò của các bị cáo B và bị cáo T trong vụ án này là tương đương nhau, các bị cáo hiểu ý nhau và cùng rủ nhau đi trộm cắp, đây là đồng phạm giản đơn, các bị cáo lần đầu phạm tội, bột phát cùng theo nhau thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình bị truy tố dựa trên tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của từng bị cáo.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo thấy:

- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố hai bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Các bị cáo đã tác động gia đình và đã bồi thường cho người bị hại và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo. Do vậy, các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích trên, căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo, HĐXX xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với các bị cáo mà căn cứ, áp dụng Điều 91, Điều 96 Bộ luật hình sự để áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại Trường giáo dưỡng đối với hai bị cáo nhằm mục đích giáo dục hai bị cáo, giúp hai bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành M để trở thành những công dân có ích cho xã hội sau này là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều chưa thành niên, không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là Chị Lò Thị H đã được bồi thường về giá trị tài sản, không yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết.

- Liên quan trong vụ án có:

+ Đối với hành vi của Nguyễn Quang B và Nguyễn Thành Đ trộm cắp tài sản vào tháng 02/2023 tại thôn N, thị trấn C, huyện Y, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong đã ra thông báo truy tìm bị hại và vật chứng liên quan đến vụ án nêu trên, tuy nhiên đến nay vẫn chưa nhận được bất cứ nguồn tin nào liên quan đến hành vi phạm tội nêu trên của B và Đ. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.

+ Đối với Nguyễn Tiến Q, sinh năm 2004, trú tại Thôn X, xã K, huyện S, thành phố HN là người cùng B, T, Đ trộm cắp xe mô tô tại địa bàn thành phố T tỉnh B. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong đã tiến hành triệu tập, xác minh đối với Nguyễn Tiến Q. Tuy nhiên, Q vắng mặt tại địa phương, gia đình và địa phương không biết Q đi đâu, làm gì, với ai nên chưa tiến hành lấy được lời khai của Q.

+ Đối với nam thanh niên tên M, quá trình điều tra Nguyễn Quang B, Nguyễn Thành Đ và Nguyễn Anh T khai nhận M là bạn của T. B, Đ, T không biết tên tuổi, địa chỉ của Minh ở đâu. Sau khi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong triệu tập làm việc cũng không gặp lại M. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong chưa có cơ sở để tiếp tục điều tra, lấy lời khai của M.

+ Đối với các hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố T của Nguyễn Quang B, Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Anh T, Nguyễn Tiến Q và nam thanh niên tên M. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã có công văn phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Từ Sơn để điều tra theo thẩm quyền. Đến nay, chưa tiếp nhận thông tin nào về người bị hại và vật chứng có liên quan. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra thành phố Từ Sơn tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.

+ Đối với Nguyễn Hữu M, M không thừa nhận việc tiêu thụ xe mô tô như Nguyễn Anh T khai nhận. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành đối chất giữa M và T tuy nhiên M vẫn giữ nguyên lời khai của bản thân. Quá trình điều tra chỉ có lời khai của Nguyễn Anh T ngoài ra không có tài liệu chứng cứ nào khác. Do đó, chưa có đủ căn cứ để xử lý M về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 Bộ luật Hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.

+ Đối với chiếc vam phá khóa, tay công và xe mô tô Honda Wave màu đen Nguyễn Anh T sử dụng để đi trộm cắp tài sản. T khai nhận T mượn của Nguyễn Hữu M. Tuy nhiên, M không thừa nhận việc cho T mượn vam phá khóa, xe mô tô T đã khai. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong đã tiến hành cho T và M đối chất nhưng M vẫn giữ nguyên lời khai. B, Đ, T đều không nhớ biển kiểm soát của chiếc xe mô tô, do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong chưa có cơ sở để tiếp tục điều tra làm rõ và thu hồi chiếc xe này. Chiếc vam phá khá và tay công T cho Nguyễn Quang B mượn và đã bị Công an huyện Yên Phong thu giữ vào ngày 02/3/2023.

[7] Về vật chứng:

- Đối với chiếc xe mô tô Honda Wave màu cam, chiếc xe đăng ký biển số 29S6-809.xx và một chiếc chìa khóa xe mô tô. Xét thấy đây là tài sản của chị V, hai bị cáo sử dụng xe đi trộm cắp thì chị vân không hề biết. Tại phiên tòa hôm nay chị V muốn được xin lại chiếc xe này nên cần trả lại cho Chị Nguyễn Thúy V là phù hợp.

- Đối với 01 tay công chữ L bằng kim loại, 01 mũi vam bằng kim loại một đầu lục giác, một đầu hình dẹt hai cạnh là công cụ, phương tiện các bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone 7 plus, số imel 359473086300205 của anh Nguyên Tiến S cho Đ mượn để liên lạc. Chiếc điện thoại này anh S cho Đ mượn, nay do không dùng đến nên anh đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó Đ có trình bày việc sử dụng chiếc điện thoại này để liên lạc với B, T rủ nhau đi trộm cắp. Do vậy đối với chiếc điện thoại này cần tịch thu sung Ngân sách nhà nước là phù hợp.

- Đối với số tiền 1.500.000đ là tiền bán xe mô tô mà B và Đ khai đã trộm cắp tại thôn N, thị trấn C, huyện Y, tỉnh B mà B chia lại cho Đ mà có. Mặc dù quá trình điều tra B và Đ có khai là số tiền có được do trộm cắp tài sản, hành vi trộm cắp này của B và Đ đang trong quá trình điều tra xác minh tìm bị hại. Xác định số tiền này là vật chứng trong vụ án khác, do vậy cần tiếp tục tạm giữa số tiền 1.500.000đ hiện đang nộp bảo quản tại Kho bạc Nhà nước huyện Yên Phong để xử lý sau là phù hợp.

- Đối với 01 chiếc đĩa CD hỏi cung các bị can cần lưu trong hồ sơ như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[8] Về án phí: Hai bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Quang B và Nguyễn Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 58; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 96 Bộ luật hình sự:

Áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại Trường giáo dưỡng đối với Nguyễn Anh T với thời hạn 18 (mười tám) tháng. Thời gian chấp hành được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ để đưa vào Trường giáo dưỡng. Miễn phạt bổ sung cho bị cáo T.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17; Điều 58; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 96 Bộ luật hình sự:

Áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại Trường giáo dưỡng đối với Nguyễn Quang B với thời hạn 18 (mười tám) tháng. Thời gian chấp hành được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ để đưa vào Trường giáo dưỡng. Miễn phạt bổ sung cho bị cáo B.

* Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho Chị Nguyễn Thúy V, sinh năm 1989; Trú tại: Thôn X, xã K, huyện S, thành phố HN chiếc xe mô tô Honda Wave màu cam, số máy: 323615, số khung: 452488; chiếc xe đăng ký biển số 29S6-809.xx và một chiếc chìa khóa xe mô tô.

- Tịch thu sung Ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone 7 plus, số imel 359473086300205.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.500.000đ (một triệu lăm trăm nghìn đồng) đang được nộp bảo quản tại kho bạc Nhà nước huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 tay công chữ L bằng kim loại.

+ 01 mũi vam bằng kim loại một đầu lục giác, một đầu hình dẹt hai cạnh.

- Lưu trong hồ sơ 01 đĩa CD hỏi cung các bị can.

* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Các bị cáo: Nguyễn Quang B, Nguyễn Anh T. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Các bị cáo, đại diện hợp pháp của các bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

+ Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

+ Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 79/2023/HS-ST

Số hiệu:79/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về