TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 78/2020/HS-PT NGÀY 12/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (11 Tôn Đức Thắng, thành phố Huế) xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 90/2020/HSPT ngày 22/4/2020 đối với bị cáo Hoàng Vi H, do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2020/HS-ST ngày 13/02/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Huế.
Bị cáo: Hoàng Vi H (tên gọi khác: Năm); Sinh ngày 11/7/1983 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Đội 5, thôn Hạ L, xã Quảng Ph, huyện Quảng Đ, tỉnh Thừa Thiên Huế; Nghề nghiệp: Thợ gò hàn; Trình độ học vấn: 08/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Hoàng Bá Th, sinh năm 1943 và bà Lê Thị H, sinh năm 1953; Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ 05; Chưa có vợ con. Tiền sự: không.
Tiền án: Có 03 tiền án:
- Ngày 14/5/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Đ, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. (Bản án số 07/2014/HSST).
- Ngày 30/9/2015, bị Tòa án nhân dân thị xã Hương Tr, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 01 năm tù về tội trộm cắp tài sản (Bản án số 28/2015/HSST).
- Ngày 23/12/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Phong Đ, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 24 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (Bản án số 38/2015/HSST). Tổng hợp với hình phạt 12 tháng tù tại Bản án số 28/2015/HTTS ngày 30/9/2015 của Tòa án nhân dân thị xã Hương Tr, hình phạt chung của hai bản án là 36 tháng tù.
- Ngày 09/4/2018 bị cáo chấp hành xong án phạt tù về lại địa phương cho đến ngày gây án.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/11/2019 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Huế; Hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TT- Huế, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 14/11/2019, Hoàng Vi H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, biển số 75E1- 093.83 đi từ nhà ở thôn Hạ Lang, xã Quảng Ph, huyện Quảng Đ, tỉnh Thừa Thiên Huế vào thành phố Huế để mua vật liệu làm gò hàn. Khi đến ngã tư Nguyễn Cư Tr - Trần Nguyên H thì nhìn thấy chị Trần Thị Kim D bỏ ví tiền vào cốp xe khi dừng xe để mua hàng ở cửa hàng tạp hóa. H nảy sinh ý định trộm cắp nên H điều khiển xe đi theo chị D. Khi đến quầy tạp hóa số 09 Trần Nguyên H, phường Thuận H, thành phố Huế thì chị D dừng xe bên lề đường để đi vào mua hàng, H dừng xe ở gần đó rồi đi bộ đến để quan sát. Thấy chị D đang đứng đợi mua hàng. H điều khiển xe mô tô dừng bên cạnh xe của chị D và móc cốp xe của chị D lấy được ví da trong đó có số tiền 4.195.000 đồng, 19 USD (đô la Mỹ), 1.000 Won (tiền Hàn Quốc) rồi tẩu thoát. H dùng tiền lấy trộm được trả nợ cho anh Nguyễn Hồng H 500.000 đồng, mua 7 tấm kim loại và tiêu dùng cá nhân hết 630.000 đồng.
*Vật chứng thu giữ gồm:
- Tiền Việt Nam 3.565.000 đồng.
- Tiền Mỹ 19 USD.
- Tiền Hàn Quốc 1.000 Won.
- 01 ví da màu nâu đen, kích thước khoảng 5cm x 15cm bên trong có 01 giấy chứng minh nhân dân Trần Thị Kim D số 190036945.
- 07 tấm kim loại trắng, kích thước các loại.
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu trắng đỏ đen, biển số 75E1-09383 đã qua sử dụng.
* Tại Bản kết luận định giá tài sản số 312/KL- HĐĐG ngày 28/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Huế kết luận: 01 ví da màu nâu có giá trị 20.000 đồng.
* Tại công văn số 709/TTH-THNSKSNB ngày 26/11/2019 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam- Chi nhánh Thừa Thiên Huế xác định tỷ giá Đồng Việt Nam (VND) với Đô la Mỹ (USD) và Won Hàn Quốc ngày 14/11/2019 là 1 USD =23.145 VND; 1 WON= 19,82 VND.
* Về xử lý vật chứng và trách nhiệm bồi thường dân sự:
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế đã trả lại 01 ví da màu nâu đen( bên trong có giấy chứng minh nhân dân và các giấy tờ tùy thân của chị Trần Thị Kim D), số tiền 3.565.000 đồng, 19 USD, 1.000 Won cho chị Trần Thị Kim D. Chị D đã nhận lại tài sản và chị D không yêu cầu bị cáo H phải trả lại cho chị số tiền mà bị cáo đã tiêu dùng.
Các vật chứng gồm: 07 tấm kim loại trắng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu trắng đỏ đen, biển số 75E1- 093.83.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2020/HSST ngày 13/02/2020, Tòa án nhân dân thành phố Huế quyết định:
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015;
Tuyên bố bị cáo Hoàng Vi H (tên gọi khác: Năm) phạm tội “ Trộm cắp tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Hoàng Vi H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ 14/11/2019.
* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Hoàng Vi H các tài sản sau:
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu trắng đỏ đen, biển số 75E1- 093.83 đã qua sử dụng.
- 07 tấm kim loại màu trắng, nhiều kích thước.
Các vật chứng trên có đặc điểm theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế ngày 15/01/2020.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 24/02/2020 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân thành phố Huế có Quyết định kháng nghị số 01/2020/QĐ-VKS-HS đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2020/HSST ngày 13/02/2020 của Toà án nhân dân thành phố Huế, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế sửa Bản án sơ thẩm theo hướng áp dụng điểm a,b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước chiếc xe mô tô Honda Airblade, màu trắng đỏ đen, biển số 75E1- 093.83 và 07 tấm kim loại màu trắng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về Trách nhiệm hình sự:
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2020/HSST ngày 13/02/2020, Tòa án nhân dân thành phố Huế kết tội Hoàng Vi H “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 điều 173 Bộ Luật Hình sự và xử bị cáo 02 năm 06 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị nên phần trách nhiệm hình sự có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[2] Xét kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế về phần xử lý vạt chứng, thấy:
- Trong quá trình thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bị cáo đã dùng xe mô tô Honda Airblade, màu trắng đỏ đen, biển số 75E1- 093.83 thuộc sở hữu của mình làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội và tẩu thoát sau khi gây án.
- Đối với 07 tấm kim loại màu trắng: Đây là tài sản được hình thành từ số tiền mà bị cáo trộm của chị D để mua, là số tiền do phạm tội mà có. Mặc dù chị D không yêu cầu bị cáo bồi thường khoản tiền đã tiêu dùng nhưng đây là tài sản bất hợp pháp.
Xét các tài sản nêu trên thuộc trường hợp phải tịch thu sung công quỹ nhà nước theo quy định tại điểm a,b Điều 47 Bộ luật Hình sự. Do đó kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu 1 xe mô tô Honda Airblade, màu trắng đỏ đen, biển số 75E1- 093.83 và 07 tấm kim loại màu trắng để sung công quỹ nhà nước là có căn cứ, đúng pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Hoàng Vi H không phải chịu. Vì các lẽ trên;
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm d khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;
QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế, sửa Bản án sơ thẩm về phần xử lý vật chứng.
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước:
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, màu trắng đỏ đen, biển số 75E1- 093.83 đã qua sử dụng của chủ sỡ hữu Hoàng Vi H.
- 07 tấm kim loại màu trắng, nhiều kích thước.
Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế ngày 15/01/2020.
Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Hoàng Vi H không phải chịu.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 78/2020/HS-PT
Số hiệu: | 78/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về