Bản án về tội trộm cắp tài sản số 74/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 74/2021/HS-ST NGÀY 22/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 80/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Đặng Văn C, sinh năm 2002 tại N Yên. Hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã T, huyện K, tỉnh Y; Tạm trú: Ấp K, xã H, huyện N, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn K, sinh năm 1973 và bà Hoàng Thị H, sinh năm 1976.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo đầu thú ngày 02/7/2021 và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/7/2021 đến ngày 29/9/2021 sau đó được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

2. Đặng Thái N, sinh năm 1995 tại N Yên. Hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã T, huyện K, tỉnh Y; Tạm trú: Ấp K, xã H, huyện N, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn K, sinh năm 1973 và bà Hoàng Thị H, sinh năm 1976.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

Bị hại: Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng phát triển Q; Địa chỉ: Số 11, 12, đường Huỳnh Thúc Kháng, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn L, chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện hợp pháp: Ông Trần Như Khoa, sinh năm 1985, chức vụ: Phó giám đốc; Địa chỉ: Số 06, đường K, khu 1, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dươn (văn bản ủy quyền ngày 02/7/2021), có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Bùi Văn R, sinh năm 1988; Thường trú: Xã ĐM, huyện L, tỉnh Hòa Bình.

Chỗ ở hiện nay: Tổ 4, ấp 1, xã T, huyện C, tỉnh Bình Phước, có đơn xin vắng mặt.

2. Ông Trương Văn B, sinh năm 1970; Địa chỉ: Ấp 1, xã Trừ V, huyện X, tỉnh Bình Dương, có mặt.

3. Ông Đặng Văn K, sinh năm 1973; Hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã T, huyện K, tỉnh Y.

Tạm trú: Ấp K, xã H, huyện N, tỉnh Bình Dương, có mặt.

Người làm chứng:

Ông Phạm Văn Th, sinh năm 1983, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Văn C là công nhân của Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng phát triển Q, địa chỉ: Phường Phú Hòa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. C được giao nhiệm vụ trông coi tài sản của Công ty ở kho xưởng tại ấp 1, xã Tân Lập, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Đến tháng 5/2021, C được Công ty giao làm nhiệm vụ khác, không còn trông coi tài sản ở kho xưởng.

Biết kho xưởng của Công ty Q tại xã Tân Lập, huyện Bắc Tân Uyên không có người trông coi nên C rủ anh ruột là Đặng Thái N trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài thì N đồng ý. Sau đó, N, C kêu Bùi Văn Rđến kho của Công ty Q giới thiệu là Công ty cần thanh lý tài sản gồm: 01 xe mô tô hiệu IMOTO (đã hư hỏng không còn sử dụng được); 02 bồn thép, thể tích 01 bồn là 12 m3; 01 máy phát điện; 01 kích thủy lực (con đội); 01 bình gaz (bình gió đá); 01 máy mài điện; 01 két sắt; 02 cây bơm dầu hiệu Tatsuno với giá 26.000.000 đồng, nhờ R tìm người bán giúp thì R đồng ý. Sau đó, R dẫn Ông Trương Văn B là chủ Cơ sở thu mua phế liệu tại huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương đến kho hàng của Công ty Q gặp N để xem hàng. N giới thiệu là người của công ty Q, được giao bán số hành thanh lý. Đến ngày 19/6/2021, ông B nói với R là đồng ý mua với số tiền 37.000.000 đồng nên R gọi điện báo cho N biết là B đồng ý mua số tài sản trên và hẹn N trưa ngày 21/6/2021 cho xe cẩu đến cẩu tài sản đi.

Khoảng 10 giờ 00 ngày 21/6/2021, N và C rủ anh Phạm Văn Thịnh là người chăn trâu gần kho của Công ty Q đi ăn, uống rượu để anh Thịnh không biết sự việc N, C trộm cắp tài sản. Trong khi N, C và anh Thịnh đang ăn, uống rượu thì R và Bảy điều khiển xe cẩu và xe tải đến nên N quay về kho Công ty Q làm giấy bán và giao tài sản cho B. Lúc này, B giao số tiền 37.000.000 đồng cho R, R đưa lại cho N số tiền là 26.000.000 đồng như thỏa thuận, số tiền còn lại R cất giữ. N đưa C 17.000.000 đồng, số tiền còn lại N cất giữ tiêu xài cá nhân. Đến ngày 02/7/2021, Công ty Q phát hiện tài sản bị mất trộm nên trình báo với Công an xã Tân Lập. Công an xã Tân Lập xác lập hồ sơ chuyển giao Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Tân Uyên điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 03/7/2021, C, N kể lại sự việc trộm cắp tài sản của Công ty Q cho cha là Đặng Văn K. Sau đó, Bùi Văn R mang số tiền 11.000.000 đồng giao lại cho ông K và dẫn ông K đi chuộc lại tài sản mà C, N đã bán cho Trương Văn B mang đến giao trả lại cho Công ty Q và đưa Đặng Văn C và Đặng Thái N đến Công an xã Tân Lập đầu thú.

Vật chứng thu giữ:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu IMOTO, loại xe Wave do Trung Quốc sản xuất, màu đen, không biển số, số khung: 91D14646, số máy: 014646 (tình trạng không còn sử dụng được) - 01 máy phát điện hiệu VEAM-VIKYNO-16.5, động cơ DIESEL RV165-2-NB, Công suất tối đa: 16,5ML/2400V/ph, Công suất định mức: 14ML/2200V/ph, Thể tích xylanh 839 cm3, Trọng lượng 132 Kg.

- 02 bồn thép, thể tích mỗi bồn là 12cm3;

- 01 kích thủy lực (con đội) màu xanh hiệu Tonbottle Jack;

- 01 bình gaz (bình gió đá) ký hiệu GB 5099 màu xanh;

- 01 máy mài điện BDK-7915;

- 01 két sắt màu xám hiệu Gold bank;

- 02 cây bơm dầu hiệu Tatsuno model: N971;

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 68/KLHĐ-ĐGTS ngày 08/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Bắc Tân Uyên xác định số tài sản mà Đặng Văn C và Đặng Thái N chiếm đoạt có tổng giá trị là 33.400.000 đồng.

Ngày 11/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị can đối với Đặng Văn C và Đặng Thái N, ra lệnh tạm giam đối với Đặng Văn C, lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Đặng Thái N để điều tra về tội Trộm cắp tài sản, được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đối với Bùi Văn R không biết N, C chiếm đoạt tài sản của Công ty Q nên tìm người mua để hưởng tiền chênh lệch. Sau khi sự việc C và N trộm cắp tài sản bị phát hiện, R đã mang tiền trả lại và cùng với ông Đặng Văn K đi chuộc lại tài sản đem trả lại cho Công ty Q nên không có căn cứ để xử lý đối với R.

Đối với Trương Văn Bảy không biết N, C chiếm đoạt số tài sản trên nên đã đồng ý mua. Với những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ không đủ cơ sở để xử lý đối với B.

Đối với 02 bồn thép, thể tích 01 bồn là 12 m3; 01 máy phát điện VEAM-VIKYNO-16.5 ĐỘNG CƠ DIESEL RV165-2-NB; 01 kích thủy lực (con đội) màu xanh hiệu Tonbottle Jack;

01 bình gaz (bình gió đá) ký hiệu GB 5099 màu xanh; 01 máy mài điện BDK-7915; 01 két sắt màu xám hiệu Gold bank; 02 cây bơm dầu hiệu Tatsuno model: N971. Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Tân Uyên đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho Công ty Q.

Đối với 01 xe mô tô hiệu IMOTO, màu đen, không gắn biển số (xe mô tô đã hư hỏng không còn sử dụng được). Cơ quan Công an huyện Bắc Tân Uyên đã tiến hành tra cứu nhưng không xác định được người đăng ký sở hữu; xe mô tô này không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Cơ quan Công an huyện Bắc Tân Uyên đã thông báo tìm kiếm chủ sở hữu những đến nay chưa ai đến liên hệ làm việc.

Đối với 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Xiaomi thu giữ của Đặng Thái N và 01 điện thoại di động nhãn hiệu LG thu giữ của Đặng Văn C. Đây là phương tiện mà N và C sử dụng cho việc trộm cắp tài sản. Cơ quan Công an huyện Bắc Tân Uyên đang tạm giữ và đề nghị chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên xử lý theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng phát triển Q không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

Cáo trạng số 78/CT-VKBTU ngày 27/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố các bị cáo Đặng Văn C và Đặng Thái N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Đặng Văn C và Đặng Thái N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, hành vi phạm tội của các bị cáo Đặng Văn C và Đặng Thái N, Kiểm sát viên đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Đối với các bị cáo Đặng Văn C và Đặng Thái N, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục hậu quả, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, các bị cáo có ông nội Đặng Văn Sách là thương binh hạng 4 và được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba, bà nội Chu Thị My có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì, ngoài ra bị cáo Đặng Thái N đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Văn C từ 15 tháng đến 18 tháng tù, cho bị cáo hưởng án treo Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Thái N từ 9 đến 12 tháng tù, cho bị cáo hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng phát triển Q đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm.

Xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp, đã trả lại vật chứng cho người bị hại nên không đặt ra xem xét.

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Xiaomi, Model: 2007 J20CG đã qua sử dụng thu giữ của Đặng Thái N và 01 điện thoại di động nhãn hiệu LG màu đen, Model : V50 ThinQ đã qua sử dụng thu giữ của Đặng Văn C là công cụ các bị cáo dùng vào việc phạm tội đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước - 01 xe mô tô nhãn hiệu IMOTO, loại xe Wave do Trung Quốc sản xuất, màu đen, không biển số, số khung: 91D14646, số máy: 014646, dung tích xi lanh 109, phần mủ nhựa toàn thân xe gãy vở, khung sườn rỉ sét, tình trạng không còn sử dụng được, không gương chiếu hậu, không kiểm tra tình trạng máy, là tài sản của Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng phát triển Q, đề nghị trả lại cho Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng phát triển Q.

Tại phiên tòa, các bị cáo Đặng Văn C và Đặng Thái N cho rằng Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi; quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đặng Văn R có đơn xin giải quyết vụ án vắng mặt, người làm chứng ông Phạm văn Thịnh vắng mặt; Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt.

[2] Về nội dung vụ án Hội đồng xét xử xét thấy:

Ngày 21/6/2021, tại xã Tân Lập, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Đặng Văn C và Đặng Thái N đã lén lút chiếm đoạt tài sản của Công ty Q gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu IMOTO, 01 máy phát điện hiệu VEAM-VIKYNO-16.5, 02 bồn thép, thể tích mỗi bồn là 12cm3, 01 kích thủy lực, 01 bình gaz (bình gió đá) ký hiệu GB 5099, 01 máy mài điện BDK- 7915, 01 két sắt màu xám hiệu Gold bank, 02 cây bơm dầu hiệu Tatsuno model: N971. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 33.400.000 đồng (Ba mươi ba triệu, bốn trăm nghìn đồng).

Như vậy Cáo trạng số 78/CT-VKSBTU ngày 27/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố các bị cáo Đặng Văn C và Đặng Thái N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời còn gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, các bị cáo đã thực hiện tội phạm mà không nghĩ đến sự trừng phạt của pháp luật. Do đó, cần xử phạt các bị cáo mức án thật nghiêm mới tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nhằm trừng trị, răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét vai trò đồng phạm của các bị cáo: Vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo C là người khởi xướng thực hiện hành vi phạm tội, cả hai bị cáo C và N đều là người thực hành.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo cho phù hợp.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo C và N không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Các bị cáo Đặng Văn C và Đặng Thái N, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục hậu quả, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, các bị cáo có ông nội Đặng Văn Sách là thương binh hạng 4 và được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba, bà nội Chu Thị My có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì, ngoài ra bị cáo Đặng Thái N đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, để các bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật, sớm nhận ra lỗi lầm của mình, an tâm cải tạo trở thành công dân tốt cho xã hội.

Các bị cáo Đặng Văn C, Đặng Thái N phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, các bị cáo có nơi ở ổn định, nên không cần bắt các bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho các bị cáo hưởng án treo như đại diện Viện kiểm sát đề nghị theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự cũng đảm bảo việc trừng trị, răn đe bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét thấy, mức án đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với các bị cáo là có căn cứ, nên hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng phát triển Q đã nhận lại tài sản và không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Xiaomi, Model: 2007 J20CG đã qua sử dụng thu giữ của Đặng Thái N và 01 điện thoại di động nhãn hiệu LG màu đen, Model: V50 ThinQ đã qua sử dụng thu giữ của Đặng Văn C là công cụ các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu IMOTO, loại xe Wave do Trung Quốc sản xuất, màu đen, không biển số, số khung: 91D14646, số máy: 014646, dung tích xi lanh 109, phần mủ nhựa toàn thân xe gãy vở, khung sườn rỉ sét, tình trạng không còn sử dụng được, không gương chiếu hậu, không kiểm tra tình trạng máy, là tài sản của Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng phát triển Q nên trả lại cho Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng phát triển Q.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu 200.000 đồng theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đặng Văn C và Đặng Thái N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Đặng Văn C 15(mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án (ngày 22/11/2021).

Xử phạt bị cáo Đặng Thái N 12 (mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án (ngày 22/11/2021).

Giao bị cáo Đặng Văn C, Đặng Thái N cho UBND xã Vĩnh Hòa, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án treo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được áp dụng theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định của pháp luật.

3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng các Điều 46, Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Xiaomi màu đen, Model: 2007 J20CG đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng mày; 01 điện thoại di động nhãn hiệu LG màu đen, Model: V50 ThinQ đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng máy.

Trả lại cho Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng phát triển Q.

01 xe mô tô nhãn hiệu IMOTO, loại xe Wave do Trung Quốc sản xuất, màu đen, không biển số, số khung: 91D14646, số máy: 014646, dung tích xi lanh 109, phần mủ nhựa toàn thân xe gãy vở, khung sườn rỉ sét, tình trạng không còn sử dụng được, không gương chiếu hậu, không kiểm tra tình trạng máy.

(Thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24 tháng 10 năm 2021 giữa Công an huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương với Chi cục Thi hành án dân sự huyện bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/PL/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Đặng Văn C, Đặng Thái N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 74/2021/HS-ST

Số hiệu:74/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về