Bản án về tội trộm cắp tài sản số 72/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 72/2022/HS-ST NGÀY 26/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 05 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 05 năm 2022 theo Quyết định đưa ra xét xử số 50/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 05 năm 2022, đối với bị cáo:

Hồ Thị L, sinh năm 1989; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Xóm , xã Đ, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Hồ Sỹ H, sinh năm 1966; họ tên mẹ: Ngô Thị L, sinh năm 1969; họ tên cG: Trần Hiểu Triều, sinh năm 1985; gia đình có ba chị em, bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự: 03 tiền án: Bản án số 238/2014/HSPT ngày 10/04/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, xử phạt Hồ Thị L 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 tháng; Bản án số 147/2015/HSST ngày 28/12/2015 của Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội, xử phạt Hồ Thị L 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt, buộc Hồ Thị L pH chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 20 tháng tù, chưa chấp hành hình phạt tù; Bản án số 138/2016/HSST ngày 30/11/2016 của Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội, xử phạt Hồ Thị L 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt, buộc Hồ Thị L pH chấp hành hình phạt chung của ba bản án là 50 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/09/2020, chưa được xóa án tích.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 25/01/2022 đến ngày 28/01/2022 hủy bỏ biện pháp tạm giữ. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị G, sinh năm 1975; đăng ký hộ khẩu thường trú:

Thôn 4, xã T, huyện K, Hà Nội, vắng mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan:

Anh Trần Hiển Triều, sinh năm 1985; nơi cư trú: Xóm C, xã S, huyện T, tỉnh Thái Nguyên, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 20/01/2022, chị Nguyễn Thị G, sinh năm 1975; trú tại: Thôn 4, T, K, Hà Nội đến công an xã T, huyện K trình báo: Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 20/01/2022, chị G phát hiện chiếc túi đeo chéo màu đen của chị bên trong có 31.000.000 đồng và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu xanh để trong ngăn kéo bàn làm việc tại vị trí cửa ra vào ở cửa hàng bán vải Hòa G, địa chỉ: Số 3B M, thôn 6, T, K, Hà Nội bị kẻ gian trộm cắp. Đồng thời chị Nguyễn Thị G giao nộp 01 chiếc USB màu bạc, nhãn hiệu KINGTON 32GB, ghi lại hình ảnh đối tượng nữ trộm cắp tài sản ngày 20/01/2022.

Ngày 25/01/2022, Hồ Thị L đến Công an xã T, huyện K đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của chị G. Ngày 28/01/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với Hồ Thị L để điều tra.

Vật chứng do Hồ Thị L giao nộp gồm:

- 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu sơn xám, BKS 20H1 - xxx, số khung: RLHJK1214MZ004273, số máy: IK12E0204299, xe đã qua sử dụng;

- 01 Bản sao giấy đăng ký xe mang tên Hồ Thị L;

- Số tiền 31.000.000 (Ba mươi mốt triệu) đồng;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu xanh.

Tại Cơ quan điều tra, Hồ Thị L khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 12 giờ ngày 20/01/2022, L điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Lead, biển số 20H1 - xxx đi từ nhà đến khu vực chợ T để mua vải về may quần áo. L đi quanh khu vực xã T đến đường M, L dựng xe đối diện với cửa hàng bán vải Hòa G ở số 3B M, T, K, Hà Nội rồi đi bộ vào trong cửa hàng Hào G để mua vải nhưng thấy không có người trông cửa hàng, L xem vải khoảng 02 phút nhưng trong cửa hàng vẫn không có người nên L nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong cửa hàng. L quan sát thấy ở ngay cửa ra vào bên pH (nhìn từ phía trong ra) có chiếc bàn gỗ, bên dưới mặt bàn có ngăn kéo. L tiến lại gần chiếc bàn, dùng tay mở ngăn kéo ra thấy có chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu xanh đặt trên chiếc túi vải đeo chéo màu đen. L lấy chiếc điện thoại và túi vải đeo chéo cất vào trong người rồi nhanh chóng đi ra lấy xe máy điều khiển xe đi về. Khi đi đến khu vực trạm soát vé đường cao tốc Hà Nội - Bắc Giang, L dừng xe lại mở chiếc túi đeo chéo ra kiểm tra thấy trong túi có tiền và một số giấy tờ, L lấy toàn bộ số tiền trong túi cất vào cốp xe máy, còn chiếc túi và giấy tờ trong túi L vứt xuống lề đường. Sau đó L tiếp tục điều khiển xe đi về nhà, L kiểm đếm số tiền trộm cắp được 31.000.000 đồng, gồm: 20.000.000 đồng tiền có mệnh giá 500.000 đồng; 10.000.000 đồng tiền có mệnh giá 200.000 đồng và 1.000.000 đồng tiền mệnh giá 100.000 đồng và 50.000 đồng. Toàn bộ tài sản trộm cắp được, L cất vào cốp xe máy của L, chưa tiêu thụ. Đến ngày 25/01/2022, do biết việc trộm cắp tài sản của mình đã bị Công an phát hiện nên L đã đến công an xã T đầu thú. Khi làm việc với cơ quan Công an, L đã tự nguyện giao nộp toàn bộ tài sản mà L đã trộm cắp được tại cửa hàng Hòa G cho Cơ quan Công an.

Tại Kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐĐGTS ngày 15/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K kết luận: 01 chiếc điện thoại di động Iphone 11 Pro Max, màu xanh, dung lượng 256GB, đã qua sử dụng có giá trị 14.500.000 đồng; 01 túi đeo chéo bằng vải màu đen có giá trị 0 đồng.

Ngày 15/03/2022, Cơ quan điều tra đã trao trả cho chị Nguyễn Thị G số tiền 31.000.000 đồng và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu xanh bị L chiếm đoạt. Chị G đã nhận lại tài sản trên và không có yêu cầu gì khác về dân sự.

Đối với chiếc túi vải đeo chéo màu đen bên trong có 02 giấy đăng ký xe máy, 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Thị G và một số giấy tờ khác, qua điều tra xác định là tài sản của chị G. Ngày 20/01/2022, Hồ Thị L trộm cắp của chị G, sau khi lấy tiền trong túi, L vứt ở lề đường khu vực trạm soát vé đường cao tốc Hà Nội - Bắc Giang thì được anh Nguyễn Đức Hợp, sinh năm 1974; trú tại: J, thành phố Hưng Yên, Hưng Yên nhặt được, anh Hợp đã mang trả cho chị G. Chị G đã nhận lại tài sản trên và không có yêu cầu đề nghị gì.

Đối với anh Nguyễn Đức Hợp, qua điều tra xác định anh Hợp không có L quan đến hành vi trộm cắp tài sản ngày 20/01/2022 của Hồ Thị L.

Đối với xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu sơn xám, BKS 20H1 – xxx, số khung: RLHJK1214MZ004273, số máy: IK12E0204299, xe đã qua sử dụng. Qua điều tra xác định chiếc xe này do Hồ Thị L mua và đứng tên đăng ký, là tài sản sở chung của L và cG là anh Trần Hiển Triều, sinh năm 1985. Ngày 20/01/2022, L sử dụng chiếc trên đi đến chợ T và thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, anh Triều không biết. Hiện chiếc xe máy trên, đang nhập kho vật chứng Công an huyện K.

Đối với chiếc USB màu bạc, nhãn hiệu KINGTON 32GB là vật chứng của vụ án, hiện đang lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện K, Hồ Thị L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 51/CT-VKSGL ngày 09 tháng 05 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Hồ Thị L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại là chị Nguyễn Thị G vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó có đơn trình bầy: Giữ nguyên toàn bộ lời trình bầy trước đây tại Cơ quan điều tra; về trách nhiệm dân sự: Chị đã nhận lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bị cáo pH bồi thường về dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan là anh Trần Hiển Triều vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó có đơn trình bầy: Giữ nguyên toàn bộ lời trình bầy trước đây tại Cơ quan điều tra; anh xin Tòa trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu sơn xám, BKS 20H1 – xxx cho hai vợ cG anh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm b khoản 2 Điều 53 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Hồ Thị L từ 30 tháng đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 25/01/2022 đến ngày 28/01/2022; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu giải quyết nên không xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, hoàn trả bị cáo chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu sơn xám, BKS 20H1 – xxx, số khung: RLHJK1214MZ004273, số máy: IK12E0204299, xe đã qua sử dụng cho bị cáo do không L quan đến hành vi phạm tội của bị cáo; tịch thu, lưu giữ theo hồ sơ vụ án 01 USB USB màu bạc, nhãn hiệu KINGTON 32GB thu giữ của chị Nguyễn Thị G.

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên không xét.

Sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện K và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị hại là chị Nguyễn Thị G và người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan là anh Trần Hiển Triều vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan điều tra và có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của chị G, anh Triều không gây trở ngại cho việc xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị G và anh Triều.

[3] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 14 giờ 45 phút ngày 20/01/2022, tại cửa hàng bán vải Hòa G ở số 3B M, xã T, huyện K, Hà Nội, bị cáo Hồ Thị L đã có hành vi trộm cắp chiếc túi vải đeo chéo màu đen bên trong có số tiền 31.000.000 đồng, một số giấy tờ cá nhân và 01 chiếc điện thoại di động Iphone 11 Pro Max, màu xanh, dung lượng 256GB, đã qua sử dụng có giá trị 14.500.000 đồng của chị Nguyễn Thị G; tổng giá trị tài sản Hồ Thị L đã trộm cắp là 45.500.000 (Bốn mươi lăm triệu năm trăm nghìn) đồng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của cá nhân nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Tại Bản án số 138/2016/HSST ngày 30/11/2016 của Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội, xử phạt Hồ Thị L 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt, buộc Hồ Thị L pH chấp hành hình phạt chung của ba bản án là 50 tháng tù với dấu hiệu định khung hình phạt là “Tái phạm nguy hiểm”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/09/2020, chưa được xóa án tích, bị cáo lại phạm tội mới với lỗi cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 của Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” với dấu hiệu định khung hình phạt là “Tái phạm nguy hiểm”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[4.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả gây ra nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với động cơ vụ lợi cá nhân.

[4.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo Hồ Thị L đã bị bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” vào các năm 2014, 2015 và năm 2016, nhưng trong thời gian thử thách lại tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Như vậy, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo nhiều lần, khi trở về nơi cư trú không cố gắng rèn luyện bản thân, hòa nhập cộng đồng, mà lại tiếp tục phạm tội.

[4.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện giao nộp tài sản đã trộm cắp để trả lại cho bị hại; bị cáo đã đến cơ quan Công an đầu thú sau khi sự việc xẩy ra và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Như vậy, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Do tình tiết “Tái phạm nguy hiểm” được xác định là dấu hiệu định khung hình phạt nên không được coi là tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 2 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần pH cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tại phiên toà là phù hợp.

[4.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã trao trả cho chị Nguyễn Thị G số tiền 31.000.000 đồng và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu xanh, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với chiếc túi vải đeo chéo màu đen, 02 giấy đăng ký xe máy, 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Thị G và một số giấy tờ khác, qua điều tra xác định là tài sản của chị G. Ngày 20/01/2022, Hồ Thị L trộm cắp của chị G, sau khi lấy tiền trong túi, L vứt ở lề đường khu vực trạm soát vé đường cao tốc Hà Nội - Bắc Giang thì được anh Nguyễn Đức Hợp, sinh năm 1974; trú tại: J, thành phố Hưng Yên, Hưng Yên nhặt được, anh Hợp đã mang trả cho chị G. Chị G đã nhận lại tài sản trên và không có yêu cầu đề nghị gì nên không xét.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu sơn xám, BKS 20H1 – xxx, số khung: RLHJK1214MZ004273, số máy: IK12E0204299, xe đã qua sử dụng: Tuy đăng ký xe mang tên chủ sở hữu Hồ Thị L nhưng nguồn gốc của chiếc xe này là tài sản chung của vợ cG chị L và anh Trần Hiển Triều. Chiếc xe là phương tiện đi lại chủ yếu và có ý nghĩa quan trọng trong đời sống lao động, sinh hoạt thường ngày của gia đình anh Trần Hiển Triều đồng thời không L quan đến hành vi phạm tội nên hoàn trả bị cáo Hồ Thị L chiếc xe máy nói trên.

Đối với chiếc USB màu bạc, nhãn hiệu KINGTON 32GB thu giữ của chị Nguyễn Thị G, có chứa hình ảnh L quan đến tội phạm; chị G tự nguyện giao nộp nên tịch thu, lưu giữ theo hồ sơ vụ án.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự của bị cáo nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phạm tội pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Về nội dung khác: Đối với anh Nguyễn Đức Hợp, qua điều tra xác định anh Hợp không có L quan đến hành vi trộm cắp tài sản ngày 20/01/2022 của Hồ Thị L. Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với anh Hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hồ Thị L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm b khoản 2 Điều 53 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Hồ Thị L 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 25/01/2022 đến ngày 28/01/2022.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Hoàn trả bị cáo Hồ Thị L chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu sơn xám, BKS 20H1 – xxx, số khung: RLHJK1214MZ004273, số máy: IK12E0204299, xe đã qua sử dụng (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K ngày 16/05/2022);

3.2. Tịch thu, lưu giữ theo hồ sơ vụ án 01 USB USB màu bạc, nhãn hiệu KINGTON 32GB thu giữ của chị Nguyễn Thị G (theo Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu đề ngày 21/01/2022 của Công an xã T, K, Hà Nội).

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

4. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự của bị cáo nên không xét.

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Hồ Thị L pH chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại là là chị Nguyễn Thị G vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan là anh Trần Hiển Triều vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp L quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 72/2022/HS-ST

Số hiệu:72/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về