Bản án về tội trộm cắp tài sản số 71/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 71/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 65/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2022, đối với bị cáo:

Phạm Văn A (tên gọi khác: Không), sinh ngày 04/6/19xx Nơi sinh, nơi cư trú: Thôn BT, xã SH, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Con ông Phạm Văn Ch, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1966 2014.

Vợ Nguyễn Thị Hồng Ng, sinh năm 1995; Có 02 con đều sinh năm Tiền án: Không.

Tiền sự (01 tiền sự): Ngày 07/6/2022, bị Cơ quan Công an huyện Đông Hưng ra Quyết định xử phạt hành chính số 52 về hành vi trộm cắp tài sản bằng hình thức phạt tiền 3.000.000 đồng. Đã nộp tiền ngày 13/6/2022.

Nhân thân: Ngày 23/3/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 30 tháng tù, về tội: “Cướp giật tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 26/10/2010, phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/4/2013, nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm ngày 08/6/2011.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/6/2022. Hiện đang bị tạm giam Nhà tạm giữ Công an huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Trích xuấtcó mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1977 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn LT, xã NX, huyện Đông Hưng, Thái Bình.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. A Phạm Văn Kh, sinh ngày 14/6/1991 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn VM, xã ĐQ, huyện Đông Hưng, Thái Bình.

2. Ông Phạm Bình L1, sinh ngày 02/7/1965 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn GL, xã ĐM, thành phố Thái Bình, Thái Bình.

3. Chị Nguyễn Thị Hồng Ng, sinh năm 1995 (có mặt) Địa chỉ: Thôn BT, xã SH, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

* Người làm chứng:

1. Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1970 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn LT, xã NX, huyện Đông Hưng, Thái Bình.

2. Anh Lã Qúy D, sinh năm 1989 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn B, xã ĐS, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 26/6/2022, Phạm Văn A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius sơn màu trắng đen, biển kiểm soát 29R3-24xx chở bạn là Phạm Văn Kh đến quán bi a 94 của anh Lã Qúy D (là bạn của A). Do anh Lã Qúy D không có mặt và quán đóng cửa nên Phạm Văn A chở Phạm Văn Kh đi về. Khi cả hai đi đến khu vực sân nhà văn hóa thôn Lê Tiến, xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng thì A và Kh thấy có 06 bao thóc loại thóc BC15 của bà Nguyễn Thị L không có người trông coi. Phạm Văn Kh nói với Phạm Văn A: “Làm bao bán lấy tiền chơi”, Phạm Văn A nhất trí dừng xe lại, Phạm Văn Kh xuống xe bê 01 bao thóc có trọng Lượng 56kg đặt lên xe rồi ngồi sau giữ bao thóc, Phạm Văn A điều khiển xe chở bao thóc và Phạm Văn Kh mang đến cửa hàng xay sát thóc thành gạo của ông Phạm Bình L1 bán với giá 7.000 đồng/01kg được 385.000 đồng. Sau khi mua thóc do A, Kh bán, ông Phạm Bình L1 đã xay sát thóc thành gạo bán cho khách hàng nên không thu hồi được. Toàn bộ số tiền 385.000 đồng bán thóc trộm cắp, Phạm Văn A và Phạm Văn Kh ăn tiêu hết. Khi bà Nguyễn Thị L ra nhà văn hóa thôn phát hiện thấy mất 01 bao thóc nên đã trình báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đông Hưng vào ngày 28/6/2022. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đông Hưng đã triệu tập Phạm Văn A và Phạm Văn Kh làm việc, Phạm Văn A và Phạm Văn Kh đã thành khẩn khai nhận hành vi của bản thân.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đông Hưng đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn A và Phạm Văn Kh nhưng không thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 23/KL-HĐĐGTS ngày 29/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đông Hưng kết luận: “56 kg thóc, loại thóc BC15, đã được phơi khô, tính đến thời điểm bị xâm hại có trị giá là: 392.000 đồng”.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại giai đoạn điều tra bà Nguyễn Thị L trình bày: Bà đã nhận lại số tiền 392.000 đồng do gia đình bị cáo Phạm văn A bồi thường, bà không yêu cầu bồi thường gì khác và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo A.

Tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Hồng Ng trình bày: Chị là vợ bị cáo A sau khi bị cáo A thông tin cho chị để bồi thường cho bị hại là chị L, chị đã bồi thường cho chị L số tiền 392.000 đồng. Chị bồi thường cả phần của A Phạm Văn Kh nhưng chị không yêu cầu bị cáo A và anh Kh phải hoàn trả lại cho chị số tiền 392.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Cáo trạng số 67/CT-VKSĐH ngày 08/9/2022 đã truy tố bị cáo Phạm Văn A, về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Phạm Văn A từ 06 tháng đến 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 29/6/2022.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Phạm Văn A.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Phạm Văn A đã tác động để chị Ng là vợ bồi thường cho chị L số tiền 392.000 đồng, chị Nguyễn Thị L đã nhận đủ và không có ý kiến, đề nghị gì khác. Đối với số tiền chị Ng bồi thường chị Ng không yêu cầu bị cáo và anh Kh phải hoàn trả lại.

* Ngoài ra còn đề nghị xử lý về vật chứng và án phí.

Bị cáo Phạm Văn A nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quy định của pháp luật giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như bản cáo trạng đã mô tả. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra; Phù hợp với đơn trình báo và lời khai của bị hại Nguyễn Thị L; Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Văn Kh và ông Phạm Bình L1; Lời khai của người làm chứng là chị Nguyễn Thị T, anh Lã Qúy D; Biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử do Công an huyện Đông Hưng lập hồi 13 giờ 15 phút ngày 28/6/2022; Kết luận định giá tài sản số 23/KL-HĐĐGTS ngày 29/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện Đông Hưng cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[2.1] Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 26/6/2022, tại khu vực sân nhà văn hóa thôn Lê Tiến, xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng, bị cáo Phạm Văn A (là người có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản – Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 52 ngày 07/6/2022 của Cơ quan Công an huyện Đông Hưng bằng hình thức phạt tiền 3.000.000 đồng) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius sơn màu trắng đen, biển kiểm soát 29R3-24xx chở Phạm Văn Kh (là người chưa có tiền án, tiền sự) đã lén lút trộm cắp có 01 bao thóc loại thóc BC15 có khối lượng 56 kg trị giá 392.000 đồng của chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1977; Địa chỉ: Thôn Lê Tiến, xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

[2.2] Hành vi của bị cáo Phạm Văn A đã phạm vào tội:“Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

“Điều 173. Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

2....”.

[2.3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo lắng và dư luận xấu trong quần chúng nhân dân ở địa phương.

[2.4] Khi xem xét, cân nhắc hình phạt Hội đồng xét xử thấy rằng:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về các tình tiết giảm nhẹ: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; Quá trình điều tra bị cáo đã tác động đến gia đình bồi thường khắc phục hậu quả; Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; Người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại quy định tại điểm b; h; s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Vì vậy, cần áp dụng hình phạt như đề nghị mà vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng là phù hợp cũng có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[2.5] Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Phạm Văn A.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo Phạm Văn A đã tác động để chị Ng là vợ bồi thường cho chị L số tiền 392.000 đồng, chị Nguyễn Thị L đã nhận đủ và không có đề nghị gì khác. Đối với số tiền 392.000 đồng, chị Ng bồi thường cho chị L, chị Ng không yêu cầu bị cáo Phạm Văn A và anh Phạm Văn Kh phải hoàn trả lại cần được chấp nhận.

[5] Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius sơn màu trắng đen, biển số 29R3-24xx, Cơ quan điều tra tiến hành điều tra xác định chiếc xe trên không phải là vật chứng của vụ án khác, chủ sở hữu ban đầu là ông Nguyễn Đức Th, sinh năm 1959, trú tại phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Ông Th trình bày chiếc xe trên ông đã bán (không viết giấy tờ mua bán) cho một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ vào năm 2010. Làm việc với ông Phạm Văn Ch, sinh năm 1966, trú thôn BT, xã SH, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình (là bố bị can A), ông Ch khai: Chiếc xemô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius sơn màu trắng đen, biển số 29R3-24xx ông mua của một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ, (không viết giấy tờ mua bán)khoảng 04 năm. Tại Kết luận giám định số 140/KL-PC09(KT) đã kết luận: “Hàng chữ, chữ số trên khung xe và thân máy xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius sơn màu trắng đen, biển số 29R3-24xx bị tẩy xóa”. Do chưa xác định rõ nguồn gốc chiếc xe nên Cơ quan điều tra đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Trong vụ án này:

- Đối với Phạm Văn Kh, sinh ngày 14/6/1991, trú tại thôn VM, xã ĐQ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình là người cùng bị can A trộm cắp 01 bao thóc BC15 trị giá 392.000 đồng là người chưa có tiền án, tiền sự; giá trị tài sản trộm cắp dưới 2.000.000 đồng. Vì vậy, cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 3.000.000 đồng là đúng pháp luật.

- Đối với ông Phạm Bình L1, sinh ngày 02/7/1965, trú tại thôn GL, xã ĐM, thành phố Thái Bình là người mua thóc do bị cáo A và A Kh bán nhưng khi mua thóc, ông L1 không biết đo là tài sản do bị cáo A và anh Kh trộm cắp mà có do đó cơ quan điều tra không xử lý gì đối với ông L1 là đúng pháp luật.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Văn A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn A phạm tội: "Trộm cắp tài sản".

2. Về áp dụng điều luật và hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn A 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 29/6/2022.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Phạm Văn A.

3. Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị L không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Bị cáo Phạm Văn A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Văn A và chị Nguyễn Thị Hồng Ng có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/9/2022). Đối với bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 71/2022/HS-ST

Số hiệu:71/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về