Bản án về tội trộm cắp tài sản số 71/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 71/2021/HS-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CÁP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 74/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73 /QĐXXST- HS ngày 06/9/2021 đối với bị cáo:

Lò Văn Q, tên gọi khác: không, giới tính: Nam, sinh ngày 06 tháng 9 năm 1995, tại huyện S , tỉnh Sơn La;

Nơi cư trú: Bản N , xã M , huyện S , tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Thái; con ông: Lò Văn B ; con bà: Tòng Thị H ; có vợ và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân; hiện đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người bị hại: Ông Vì Văn T, sinh năm 1980, cư trú tại bản N, xã M, huyện S , tỉnh Sơn La; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Lò Thị O, sinh năm 1992, cư trú tại bản N , xã M , huyện S , tỉnh Sơn La; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 7 giờ ngày 22/6/2021 Lò Văn Q một mình điều khiển xe máy và mang theo 01 chiếc thuổng, 01 con dao quắm cùng một số đồ dùng cá nhân đến khu rừng thuộc địa phận của bản N, xã M mục đích để tìm kiếm "cây Mú Từn" cây thuốc về bán. Trong quá trình tìm kiếm Q phát hiện 04 con bò của gia đình anh Vì Văn T ở bản N, xã Mường Và đang thả dông ở bãi chăn thả, quan sát thấy không có người trông coi; Q đã nảy ý định bắt trộm 01 con mổ lấy thịt về ăn. Q đã hái lá của cây chít nhử cho bò ăn và túm lấy dây buộc chuông ở cổ con bò cái lông màu vàng đồng thời dùng dao chặt lấy đoạn dây rừng buộc vào cổ con bò dắt đi khoảng 4 mét rồi buộc ghì cổ bò vào gốc cây, dùng lá cây rừng nhét vào trong chiếc chuông sắt của con bò nhằm không phát ra tiếng kêu, tránh sự phát hiện của người khác. Khi chuẩn bị giết mổ thì có anh Tòng Văn Vui, sinh năm 1980, trú tại bản Nà Khoang xã Mường Và nhìn thấy, Q đã bỏ chạy cách xa chỗ con bò khoảng 1.300m, sợ bị phát hiện Q đã cởi bỏ áo khoác ra, vứt đôi giầy màu vàng đang đi và vứt chiếc túi tự chế bằng vỏ bao dứa rồi đến chỗ để xe máy ban đầu để về nhà, thì bị người dân phát hiện.

Tại cơ quan điều tra Lò Văn Q nhận đã có hành vi vi phạm nêu trên.

Hồi 15 giờ ngày 22/6/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp đã khám nghiệm hiện trường nơi (con bò bị buộc vào gốc cây gỗ thồ lộ có đường kính khoảng 20cm).

Vật chứng thu được các vật chứng là 04 đoạn dây rừng có đường kính trung bình là 1cm, chiều dài các đoạn dây lần lượt là 1m, 1,6m, 1,8m, 2,2m có buộc các nút thắt; 01 chiếc áo dài tay màu tím có mũ trùm; 01 đôi giầy bằng nhựa màu vàng; 01 đôi tất màu xanh; 01 chiếc điện thoại di động loại bàn phím số, nhãn hiệu JVJ màu đỏ đen không có sim; 01 túi tự chế bằng vỏ bao bì đựng phân bón NPK có chế quai đeo.

Tài sản bị xâm hại là 01 con bò màu lông vàng của anh Vì Văn T quá trình điều tra đã giao cho chủ sở hữu quản lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

Các vật chứng bị cáo Quấn tự giao nộp: 01 chiếc túi tự chế từ bao tải dứa có dây đeo; 01 chiếc thuổng có lưỡi bằng kim loại dài 36cm; 01 con dao quắm dài 55cm, phần chuôi dao bằng gỗ dài 19cm; 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 26H4- 0186, không có số khung, số máy.

Ngày 23/6/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp đã trưng cầu giám định số 49, yêu cầu định giá con bò cái lông màu vàng, tại thời điểm bị xâm hại của gia đình ông Vì Văn T .

Kết luận định giá tài sản số: 06/KL-HĐĐG ngày 24/6/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân huyện Sốp Cộp, kết luận: "01 con bò cái, lông màu vàng, đỏ khoảng 6 -7 năm tuổi, trọng lượng thịt khoảng 60kg, đang mang thai khoảng 06 tháng tuổi, tại thời điểm bị xâm hại có giá trị là 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng).

Bản cáo trạng số: 52/CT- VKSSC, ngày 01 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên Tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, giữ nguyên quan điểm truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1, 2 khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lò Văn Q , từ 12 đến 14 tháng tù, cho hưởng án treo, tuyên thời gian thử thách. Giao bị cáo cho chính quyền nơi bị cáo cư trú để giám sát giáo dục chấp hành án. không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về vật chứng của vụ án: Tịch thu để tiêu hủy:

- 01 chiếc áo dài tay màu tím, loại áo nỉ, có mũ trùm đầu; 01 đôi giầy nhựa màu vàng; 01 đôi tất chân màu xanh; 01 đôi gang tay màu đen; 01 chiếc túi tự chế từ bao bì đựng phân NPK; 01 túi bao tải dứa tự chế; 01 chiếc thuổng bằng kim loại; 01 con dao quắm có tổng chiều dài 55cm; 04 đoạn dây cây rừng; 01 chiếc xe máy, biển kiểm soát 26H4- 0186, Bưởng máy ký hiệu 'HONDA" không có vỏ, không có số khung, số máy, đã cũ nát.

-Trả cho bị cáo Lò Văn Q 01 chiếc điện thoại di động loại bàn phím số, nhãn hiệu JVJ màu đen, đỏ, IMEXL 1:355653053427198, IMEXL 2: 355653053427206, không lắp sim, đã cũ qua sử dụng.

Về phần bồi thường: Bị cáo Lò Văn Q đã tự thỏa thuận bồi thường trước 1.000.000 đồng cho người bị hại là anh Vì Văn T , anh T không có yêu cầu bồi thường khác, cần chấp nhận.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: bà Lò Thị Ó , đề nghị được trả lại tài sản là chiếc xe máy.

Về án phí: Miễn khoản án phí cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tính hợp pháp của các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố; Đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định tội danh: Khoảng 7 giờ ngày 22/6/2021 Lò Văn Q đến khu rừng thuộc địa phận của bản N, xã M mục đích để tìm kiếm "cây Mú Từn" cây thuốc về bán. Trong quá trình tìm kiếm Q đã phát hiện và bắt trộm 01 con bò mục đích mổ lấy thịt về ăn. Q đã túm lấy dây buộc chuông ở cổ con bò cái lông màu vàng đồng thời lấy dây rừng buộc vào cổ con bò dắt đi khoảng 4 mét rồi buộc ghì cổ bò vào gốc cây, Khi chuẩn bị giết mổ thì có anh Tòng Văn V, nhìn thấy, Q đã bỏ chạy cách xa chỗ con bò khoảng 1.300m, đã cởi bỏ áo khoác, bỏ đôi giầy màu vàng đang đi và vứt chiếc túi tự chế bằng bỏ bao dứa rồi đến chỗ để xe máy ban đầu để về, thì bị người dân phát hiện và yêu cầu đến cơ quan Điều tra. Xét lời khai nhận của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên Tòa đều phù hợp với đơn tố giác tội phạm, đơn yêu cầu của người bị hại, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản giao nộp vật chứng, Quyết định yêu cầu giám định số 49; kết luận giám định số 06/KL-HĐĐG ngày 24/6/2021, lời khai của người làm chứng, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật.

[3] Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, hành vi của bị cáo là táo bạo,nguy hiểm gây mất trật tự an ninh trong khu vực, là hành vi vi phạm pháp luật; cần phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật, nhằm răn đe giáo dục bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, trước khi phạm tội lần này bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chính quyền địa phương nơi cư trú xác nhận ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân nơi cư trú, có nơi cư trú rõ ràng. Do đó, tuy vẫn áp dụng hình phạt tù, nhưng có thể cho bị cáo được hưởng án treo với thời gian thử thách phù hợp là đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 04 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, tích cực bồi thường, khai báo thành khẩn, phạm tội nhưng chưa gây hậu quả, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt chính bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự, xét thấy bị cáo không có tài sản, nên không áp dụng.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Tòng Thị Ó, có đề nghị cơ quan có thẩm quyền trả lại chiếc xe máy, là tài sản chung của gia đình làm phương tiện sản xuất.

[6] Về phần bồi thường dân sự:

Gia đình bị cáo Q đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho người bị hại 1.000.000 đồng công tìm kiếm tài sản cần chấp nhận.

[7] Vật chứng còn lại là:

01 chiếc áo dài tay có mũ trùm; 01 đôi giầy nhựa màu vàng đã qua sử dụng; 01 đôi tất chân màu xanh đã cũ; 01 đôi gang tay màu đen đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại loại bàn phím số, nhãn hiệu JVJ màu đen, đỏ; IMEXL 1:355653053427198, IMEXL 2: 355653053427206 không lắp sim, 01 chiếc túi tự chế từ bao bì đựng phân NPK, có quai đeo; 01 túi bao tải tự chế, có dây đeo; 01 chiếc thuổng bằng kim loại dài 36 cm; 01 con dao quắm có tổng chiều dài 55cm; 04 đoạn dây rừng; 01 xe máy, bưởng máy HONDA, biển kiểm soát 26H4-0186, không có vỏ, không có số khung, số máy, xét thấy không đủ điều kiện tham gia giao thông, cần tịch thu để tiêu hủy.

[8] Về án phí:

Bị cáo là dân tộc thiểu số nơi cư trú có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, căn cứ vào khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; cần miễn án phí cho bị cáo.

[9] Quyền kháng cáo:

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1, 2 khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Lò Văn Q phạm tội Trộm cáp tài sản.

Xử phạt bị cáo Lò Văn Q , 12 (Mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án (15/9/2021); Giao bị cáo Q cho Ủy ban nhân dân xã M , huyện S , tỉnh Sơn La giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự quy định: “Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 2019 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2.Về phần bồi thường dân sự:

Chấp nhận bị cáo Lò Văn Q đã bồi thường xong số tiền 1.000.000 đồng cho người bị hại là Vì Văn Thươi.

Về vật chứng:

Tịch thu để tiêu hủy: 01 chiếc áo dài tay màu tím, loại áo nỉ, có mũ trùm đầu, khóa kéo bị hỏng, đã qua sử dụng; 01 đôi giầy nhựa màu vàng đã qua sử dụng; 01 đôi tất chân màu xanh đã cũ; 01 đôi gang tay màu đen đã qua sử dụng; 01 chiếc túi tự chế từ bao bì đựng phân NPK, có quai đeo đã qua sử dụng; 01 túi tự chế bằng bao tải dứa, có dây đeo đã qua sử dụng; 01 chiếc thuổng bằng kim loại dài 36 cm; bản rộng 7cm đã cũ qua sử dụng; 01 con dao quắm có tổng chiều dài 55cm, chuôi dao bằng gỗ dài 19 cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 36cm, phần bản rộng nhất là 4cm đã qua sử dụng; 04 đoạn dây cây rừng, đường kính trung bình là 1cm, có chiều dài lần lượt là 1m, 1,6m, 1,8m, 2,2m có buộc các nút thắt; 01 chiếc xe máy, biển kiểm soát 26H4-0186, bưởng máy ký hiệu 'HONDA" không có vỏ, không có số khung, số máy, đã cũ qua sử dụng.

Tuyên trả cho bị cáo Lò Văn Q 01 chiếc điện thoại di động loại bàn phím số,nhãn hiệu JVJ màu đen,đỏ,IMEXL 1: 355653053427198; IMEXL 2: 355653053427206 không lắp sim, đã cũ qua sử dụng.

3.Về án phí:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Miễn khoản án phí cho bị cáo Lò Văn Q .

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 15/9/2021

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 71/2021/HS-ST

Số hiệu:71/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về