Bản án về tội trộm cắp tài sản số 624/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 624/2019/HS-ST NGÀY 31/12/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 12 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 622/2019/TLST- HS ngày 11 tháng 12 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 627/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2019 đối với:

- Bị cáo: Phạm Hiếu H, sinh năm 1976 tại tỉnh B; Địa chỉ thường trú: ấp Th, Thị trấn C, huyện Ph, tỉnh C; Địa chỉ cư trú: Không nơi ở ổn định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Nh (đã chết) và bà Nguyễn Thị G (đã chết); bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị L, sinh năm 1976 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2018.

Tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/10/2019. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Bà Trịnh Thị Kim O, sinh năm 1969; địa chỉ cư trú: tổ 1, khu phố 7, phường T, thành phố B, tỉnh Đ; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Khoảng 05 giờ 40 phút ngày 20-10-2019, Phạm Hiếu H đi bộ ngang nhà tổ 1, khu phố 7, phường T, thành phố Biên Hòa do chị Trịnh Thị Kim O làm chủ thì phát hiện thấy cửa không đóng, không có người trông coi, bên trong nhà có dựng 01 xe mô tô biển số 60FD-xxxx, nhãn hiệu Honda Cub trong phòng khách (đầu xe hướng vào trong nhà, đuôi xe hướng ra phía ngoài đường) nên H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Thực hiện ý định trên, H đi vào bên trong nhà dẫn chiếc xe mô tô trên lùi về sau nhằm quay đầu xe hướng ra cửa tẩu thoát nhưng khi H vừa quay ngang chiếc xe mô tô trên cách vị trí ban đầu khoảng 2m thì bị chị O phát hiện, tri hô cùng quần chúng nhân dân bắt giữ H, giao Công an phường T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa điều tra, xử lý.

Biên bản ghi lời khai, hỏi cung bị can bút lục số (36, 37-38);Biên bản ghi lời khai bị hại bút lục số (54).

Vật chứng thu giữ: 01 (Một) xe mô tô nhãn Honda Cub, biển số 60FD- xxxx thuộc sở hữu của chị Trịnh Thị Kim O. Cơ quan điều tra đã giao trả lại cho chị O. t lục số (01-02).

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 483/TCKH-HĐĐG ngày 22-10-2019, của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa đã kết luận: “01 (Một) xe mô tô biển số 60FD-xxxx, nhãn hiệu Honda Cub có giá trị tài sản định giá là 4.000.000đ (Bốn triệu đồng)”. Bút lục số (16, 17).

Trách nhiệm dân sự: Chị Trịnh Thị Kim O đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bị can Phạm Hiếu H bồi thường. Bút lục số (44, 53)

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 592/CT-VKSBH ngày 26/11/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố Phạm Hiếu H về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

+ Áp dụng Khoản 1, Điều 173 và Điểm i, h, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Phạm Hiếu H từ 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) tháng tù.

- Lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Người bị hại Trịnh Thị Kim O vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên chị O đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường, đã có lời khai đầy đủ trong hồ sơ vụ án. Việc vắng mặt trên không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai bị hại, người làm chứng, kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 05 giờ 40 phút, ngày 20-10-2019, tại nhà tổ 1, khu phố 7, phường T, thành phố Biên Hòa, Phạm Hiếu H đã có hành vi trộm cắp 01 (Một) xe mô tô biển số 60FD-xxxx, nhãn hiệu Honda Cub có giá trị tài sản định giá là 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) của chị Trịnh Thị Kim O thì H bị bắt quả tang.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được Nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Phạm Hiếu H phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản Cáo trạng số 592/CT-VKSBH ngày 26/11/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Phạm Hiếu H về tội “trộm cắp tài sản” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; thuộc trường hợp được quy định tại điểm i, h, s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Phạm Hiếu H để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự:

Người bị hại Trịnh Thị Kim O đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

[4] Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;

[5] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt phù hợp nên được chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Hiếu H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ Khoản 1, Điều 173; điểm i, h, s, Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Phạm Hiếu H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20 tháng 10 năm 2019.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phạm Hiếu H phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được hoặc bản án được hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

91
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội trộm cắp tài sản số 624/2019/HS-ST

Số hiệu:624/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về