Bản án về tội trộm cắp tài sản số 58/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 58/2023/HS-ST NGÀY 23/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận P, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 42/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1987 tại tỉnh Bình Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc C và bà Nguyễn Thị B (chết); hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; Tiền án: 02

- Ngày 19/01/2022, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 13/2022/HSST (đến ngày 19/9/2020 chấp hành xong án phí dân sự, ngày 29/10/2022 chấp hành xong hình phạt tù);

Ngày 10/11/2022, bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình xử phạt phạt tiền 50.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” tại Bản án số 106/2022/HSST (Chưa đóng tiền phạt); Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 11/12/2018, bị Công an Q xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc” tại Quyết định số 0034481/QĐ-XPVPHC (Đã đóng phạt).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/4/2023, bị tạm giam từ ngày 10/4/2023 tại Nhà tạm giữ - Công an quận P.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1/ Bà Trần Thị Hoàng A, sinh năm 1998 (vắng mặt) Địa chỉ: I N, Phường A, quận P, Thành phố H.

2/ Ông Phạm Hải V, sinh năm 1998 (vắng mặt) Địa chỉ: I N, Phường A, quận P, Thành phố H.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Phạm Minh B1, sinh năm 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố L, phường T, thị xã T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 01/4/2023, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô hiệu Click màu đen, biển số 70L 1-xxxxx đi ngang nhà số I N, Phường A, quận p thì T nhìn thấy cửa ngoài ban công lầu 02 căn nhà không đóng. Lúc này T nảy sinh ý định đột nhập vào bên trong nhà để trộm cắp tài sản. Sau đó, T dựng xe kế bên nhà 94D Nguyễn Trọng T1 rồi leo tường rào lên ban công lầu 2 căn nhà, vào phòng ngủ ông Phạm Hải V và bà Trần Thị Hoàng A, lợi dụng lúc ông V và bà A đang ngủ, T đã lén lút dùng tay phải lấy các tài sản gồm: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, 256GB; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone Xsmax, màu trắng, 256Gb (để dưới nền nhà) và 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo, màu xám (để trên bàn xếp); nhưng bị ông V phát hiện, truy hô và được người nhà hỗ trợ bắt giữ được T cùng vật chứng, phương tiện đưa về Công an P, quận P tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang; sau đó chuyển đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận P điều tra, làm rõ.

Tài sản bị chiếm đoạt gồm: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, 256GB; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone Xsmax, màu trắng, 256Gb (để dưới nền nhà) và 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo, màu xám. Căn cứ Kết luận định giá tài sản ngày 04/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, Ủy ban nhân dân quận P kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12Promax, màu xanh, 256Gb, trị giá 15.000.000 đồng, 01 laptop hiệu Lenovo trị giá 5.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị trộm là 28.000.000 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận P đã quyết định khởi tố điều đối với Nguyễn Văn T về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên, phù hợp vật chứng thu giữ, lời khai bị hại và các tài liệu, chứng cứ Cơ quan điều tra thu thập được.

Vật chứng vụ án: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, 256Gb; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone XSmax, màu trắng, 256Gb; 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Lenovo, màu xám; tất cả đã được thu hồi và giao trả cho phía bị hại (bà Trần Thị Hoàng A và ông Phạm Hải V).

Về trách nhiệm dân sự: phía bị hại (bà Trần Thị Hoàng A và ông Phạm Hải V) đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.

Tại bản cáo trạng số 43/CT-VKSPN ngày 12 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận P, Thành phố H đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận P, Thành phố H vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và nhân thân của bị cáo; đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T mức án từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù; xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an quận P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các văn bản tố tụng có trong hồ sơ vụ án như bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung, kết luận định giá... đều được tiến hành theo đúng quy định; tại các bản khai, biên bản hỏi cung và các tài liệu khác bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng có trong hồ sơ vụ án của Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 01/4/2023, Nguyễn Văn T đã có hành vi trộm cắp tài sản gồm 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, 256Gb của bà Trần Thị Hoàng A, 01 điện thoại di động hiệu Iphone XSmax, màu trắng, 256Gb và 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo, màu xám của ông Phạm Hải V tại nhà số IN, Phường A, quận P. Hành vi của bị cáo bị ông V phát hiện, truy hô và được người nhà hỗ trợ bắt giữ được T cùng vật chứng, phương tiện đưa về Công an P, quận P tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

[3]. Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng, bản kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Nguyễn Văn T đã lợi dụng sơ hở của chủ tài sản trong việc trong việc quản lý tài sản để lén lút chiếm đoạt các tài sản với tổng trị giá 28.000.000 đồng (hai mươi tám triệu đồng); nên bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh với mức hình phạt tương xứng với tiền án, nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo; qua đó răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đồng thời đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 02 tiền án về tội ít nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội ít nghiêm trọng do cố ý, thuộc trường hợp “Tái phạm”, nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về tình tiết giảm nhẹ: xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại (do tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và trả cho bị hại); do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đà được thu hồi trả lại cho bị hại, phía bị hại không có yêu cầu gì; do vậy, không có gì để Tòa giải quyết.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 xe mô tô hiệu Click, biển số 70L1-xxxxx, số máy JF18E-0092851, số khung: RLHJF1803-8Y016378 là phương tiện T sử dụng để đi trộm cắp tài sản. Qua xác minh, do ông Phạm Minh BI đứng tên chủ sở hữu. Ông B1 khai khoảng tháng 3/2021, ông Bình bán xe trên cho một người không rõ nhân thân, lai lịch, không làm hợp đồng mua bán. Còn bị can T khai mua lại xe của một người không rò nhân thân, lai lịch, không làm hợp đồng mua bán xe, giấy tờ xe T đã mang đi cầm và không rõ địa chỉ, nên hiện chưa xác định chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, trong khi chiếc xe trên lại là phương tiện dùng vào việc phạm tội; do vậy giao cho Chi cục Thi hành án Dân sự quận P, Thành phố H tiến hành thông báo trong thời hạn nhất định, nếu không có chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp liên hệ nhận, thì đề nghị căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Điều 228 Bộ luật Dân sự năm 2015, tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với: 01 đôi dép màu đen viền xám, 01 cái nón bảo hiểm màu xanh trắng, 01 cái áo tay dài màu xanh, 01 quần Jeans sọt màu xanh; là quần áo T mặc khi đi trộm cắp tài sản, không đáng giá trị; vậy căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu và tiêu hủy.

Đối với: 01 điện thoại di động hiệu Redmi G6, 64Gb đã bị nứt màn hình; quá trình điều tra xác định không phải là phương tiện dùng vào việc phạm tội; do vậy trả lại cho bị cáo.

Về án phí sơ thm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 53; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s, h khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/4/2023.

- Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 228 Bộ luật Dân sự năm 2015;

+ Tịch thu và tiêu hủy: 01 đôi dép màu đen viền xám, 01 cái nón bảo hiểm màu xanh trắng, 01 cái áo tay dài màu xanh, 01 quần Jeans sọc màu xanh.

+ Giao Chi cục Thi hành dân sự quận P, Thành phố H thông báo với thời hạn 12 tháng đối với 01 xe mô tô biển số 70L1-xxxxx, để chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp (nếu có) đến nhận, trong thời hạn trên kể từ ngày đăng báo mà không có chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp liên hệ nhận thì tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T: 01 điện thoại di động hiệu Redmi G6, 64Gb.

(Tình trạng vật chứng, tài sản theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/8/2023 giữa Công an quận P, Thành phố H và Chi cục Thi hành dân sự quận P, Thành phố H).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 58/2023/HS-ST

Số hiệu:58/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về