Bản án về tội trộm cắp tài sản số 58/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 58/2022/HS-ST NGÀY 23/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 01/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định phục hồi vụ án số 01/2022/HSST-QĐ ngày 11/8/2022 và Thông báo mở phiên toà xét xử số 05/2022/QĐ-HSST ngày 11/8/2022 đối với bị cáo:

- Họ tên: Vũ Thị Thanh H, SN: 10/7/2005; Nơi cư trú: Thôn 21, xã T, huyện T, tỉnh N. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Vũ Văn M - SN: 1982; Con bà: Ngô Thị H - SN: 1984; Gia đình có 03 chị em. Bị cáo là thứ hai. Chồng, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Chưa có. Bị cáo tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/8/2022. Bị cáo có mặt.

Người giám hộ: Anh Vũ Văn M, sinh năm 1982; Địa chỉ: Thôn 21, xã T, huyện T, tỉnh N. (có mặt)

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đinh Thị Thanh T – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh N.

- Bị hại: Chị Ngô Thị N, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Thôn 14, xã T, huyện T, tỉnh N. (vắng mặt)

- Người làm chứng: Anh Vũ Đình D, sinh năm 2004; Trú tại: Xóm 2, xã T, huyện T, tỉnh N. Vắng mặt.

Anh Võ Thành Đ, sinh năm 2004; Trú tại: Xóm 5, xã T, huyện T, tỉnh N. Vắng mặt.

Anh Nguyễn Đức H, sinh năm 2000; Trú tại: TDP H, TT C, huyện T, tỉnh N. Vắng mặt.

Anh Phạm Hữu B, sinh năm 2006; Trú tại: Xóm 8, thôn Q, xã T, huyện T, tỉnh N. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội Dng vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 14/9/2021, Vũ Thị Thanh H đến nhà Vũ Đình D là bạn chơi. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, D điều khiển xe máy chở H đi chơi theo đường TL488B hướng ra thị trấn Cát Thành. Khi đi đến gần cầu Dài, xã Trực Thanh, huyện T thì xe máy của D bị hết xăng. D xuống dắt xe máy đi về hướng xã Trực Đạo tìm cửa hàng để đổ xăng còn H đi bộ theo sau. Đi theo được một đoạn khoảng 50m, do D đi nhanh H không theo kịp nên đã đứng lại chờ D đổ xăng rồi quay lại đón. D tiếp tục dắt xe đến cửa hàng xăng dầu tại khu vực chợ Giá xã Trực Đạo nhưng do cửa hàng đóng cửa nên D dắt xe máy quay lại và gọi điện cho Vũ Thành Đ ở xóm 2, xã Trực Thanh, nhờ ra đẩy xe máy của D đi đổ xăng. Đ đồng ý đi xe máy ra cùng đẩy D ngồi trên xe máy của D đi đến thị trấn Cát Thành đổ xăng.

Trong khi đó, H đứng đợi lâu không thấy D quay lại đón, H liền đi bộ theo đường TL488B về hướng xã Trực Đạo. Đến khoảng gần 21 giờ cùng ngày, H đi đến cầu Ủy ban nhân dân xã Trực Đạo, đi bộ qua cầu sang đường trục thôn 14, xã Trực Đạo rồi tiếp tục đi hướng ra đường TL488B mới đang thi công để tìm D. Đi được khoảng 150m, H đến trước cửa nhà chị Ngô Thị N ở thôn 14, xã T, huyện T, tỉnh N. Lúc này, chị N đang ở khu công trình phụ phía sau nhà, cháu Phạm Khánh H (là con chị N) đang học bài trên tầng 2. H đứng ngoài đường quan sát thấy cửa phía trước nhà chị N là cửa sắt xếp không có lá tôn chắn trong tình trạng khép hờ. H nhìn qua cửa vào trong sân trước nhà có dựng chiếc xe máy nhãn hiệu BOSS, kiểu dáng Dream, sơn màu nâu, biển số 18E1-xxxxx, đầu xe hướng vào trong nhà, chìa khoá điện của xe còn cắm trên ổ khoá; cửa ra vào chính ngôi nhà phía trong mở, phòng khách bật điện sáng nhưng không có người. H nảy sinh ý định trộm cấp chiếc xe máy của chị N để làm phương tiện đi lại. H quan sát trên đường lúc này không có người đi lại nên đi đến dùng tay kéo mở cánh cửa phía bên phải nhà chị N (theo hướng nhìn từ ngoài vào) ra rồi đi vào trong sân gạt chân chống phụ dắt lùi chiếc xe máy ra phía ngoài đường, mở khóa điện của xe rồi lên xe nổ máy đi ra đường TL488B đang thi công rồi đi về cầu Dài xã Trực Thanh. Lúc này sau khi đã đổ xăng xong, D và Đ đi về nhà Đ chơi. Sau đó, D lại đi ra cầu Dài mua nước về nhà Đ uống thì gặp H đi xe máy đến. Thấy H đang đi xe máy, D hỏi: “Xe ở đâu đấy”, H nói “Xe mượn của bạn L gần nhà”. Sau đó, H và D cùng đi về nhà Đ ngồi chơi nói chuyện. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, D để xe máy của mình gửi lại ở nhà Đ rồi điều khiển chiếc xe máy biển số 18E1-xxxxx chở H đến nhà Nguyễn Đức H ở TDP H, thị trấn C, huyện T, tỉnh N xin ngủ qua đêm.

Sáng ngày 15/9/2021, D đi xe máy chở H quay lại nhà Đ lấy xe máy của D rồi đến nhà chở Phạm Hữu B về nhà D chơi. Khi về đến nhà D, H nói với D: “Mày tháo hộ tao cái yếm” ý nhờ D tháo phần vỏ nhựa của chiếc xe máy biển số 18E1-xxxxx. D đồng ý cùng H tháo phần yếm xe, gương chiếu hậu và giỏ xe rồi để các phụ tùng này ở nhà D. Lúc sau, D điều khiển xe máy của D chở B còn H điều khiển xe máy trộm cắp của chị N đi lang thang trên đường chơi. Đến trưa cùng ngày, H đi về quán Internet “Pro Gameming” của anh Phạm Văn V ở thôn 11, xã Trực Đạo chơi Game. Từ buổi trưa ngày 15/9/2021, H chơi tại quán Internet và đi lang thang trên đường không về nhà. Buổi tối H chơi Game và ngủ lại qua đêm tại quán.

Sáng ngày 18/9/2021, H sợ bị người khác phát hiện biển số xe máy đã trộm cắp nên dùng khẩu trang che biển số xe rồi đi xe đến nhà D chơi cùng D và B. Do giữa D và bà Lương Thị D1 (là mẹ đẻ của D) xảy ra mâu thuẫn cãi chửi nhau nên Công an xã Trực Hưng đã đến làm việc giải quyết. Phát hiện chiếc xe máy của H dùng khẩu trang che biển số, Công an xã Trực Hưng yêu cầu H xuất trình giấy tờ tuỳ thân cá nhân và giấy tờ xe để kiểm tra. Lúc này, H mới mở cốp xe máy ra thấy trong cốp có 01 (một) chứng nhận đăng kí xe máy biển số 18E1-xxxxx, 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Ngô Thị N, 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm. H tự nguyện giao nộp cho Công an xã Trực Hưng. Công an xã Trực Hưng đã tạm giữ số giấy tờ trên và yêu cầu H đến trụ sở Công an xã để làm việc nhưng H lại điều khiển xe máy bỏ đi. Đến tối cùng ngày, H đi xe máy biển số 18E1-xxxxx về khu vực xã Trực Đạo. Theo H khai gặp Nguyễn Thành Long ở huyện Xuân Trường là bạn quen biết qua mạng xã hội. H dựng chiếc xe máy trên để tại vệ đường trục gần cầu Láng thôn 19, xã Trực Đạo rồi được Long đi xe máy của Long chở đi chơi.

Sáng ngày 19/9/2021, quần chúng nhân dân phát hiện chiếc xe máy của chị N do H để lại trên đường đã trình báo Công an xã Trực Đạo tiến hành tạm giữ để giải quyết.

Vật chứng thu giữ:

01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu BOSS kiểu dánh Dream, màu sơn nâu, biển số 18E1-xxxxx, số khung: VMESE1245107, số máy: 10D5H245107, xe không có cánh yếm, không có gương chiếu hậu, không có giỏ xe.

01 (một) yếm xe máy bằng nhựa màu trắng, 02 (hai) gương chiếu hậu, 01 (một) giỏ xe bằng kim loại phát hiện tại nhà Vũ Đình D do D tự nguyện giao nộp.

01 (một) chứng nhận đăng kí xe 18E1-xxxxx mang tên Phạm Văn H ở xã Trực Đại, 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Ngô Thị N, 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm do Công an xã Trực Hưng thu giữ của Vũ Thị Thanh H tự nguyện giao nộp.

Qua xác minh toàn bộ số tài sản và giấy tờ trên là tài sản của vợ chồng chị Ngô Thị N nên CQĐT đã trả lại cho chị N. Chị N không có yêu cầu gì thêm về dân sự.

Bản kết luận định giá tài sản số 29 ngày 07/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T xác định: Chiếc xe máy nhãn hiệu BOSS, kiểu dáng Dream, màu sơn nâu, biển số 18E1-xxxxx, số khung: VMESE1245107, số máy: 10ADSH245107, do Trung Quốc sản xuất lắp ráp, xe đã qua sử dụng, hoạt động bình thường có giá trị là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Đối với Vũ Đình D đã có hành vi sử dụng chiếc xe máy biển số 18E1-xxxxx chở H đi đến nhà Nguyễn Đức H xin ngủ nhờ và cùng H tháo một số phụ tùng xe để H che giấu hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, D không được hứa hẹn, bàn bạc từ trước và không biết nguồn gốc chiếc xe máy là do H trộm cắp mà có nên không phạm tội.

Nguyễn Đức H, Vũ Thành Đ và Phạm Hữu B đều biết H sử dụng chiếc xe máy 18E1-xxxxx. Tuy nhiên H, Đ, B đều không biết nguồn gốc chiếc xe máy là do H trộm cắp mà có nên không xem xét xử lý.

Đối với người bạn chở H đi chơi tối ngày 18/9/2021, theo H khai tên là Nguyễn Thành Long ở huyện Xuân Trường, H quen biết qua mạng xã hội. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được là ai để triệu tập làm việc.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Thị Thanh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 24-02-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Vũ Thị Thanh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay: Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T luận tội và tranh luận:

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Vũ Thị Thanh H theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Vũ Thị Thanh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ Khoản 1 Điều 173 BLHS, Điểm i,s Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều thực hiện đúng theo qui định pháp luật.

[2] Từ những chứng cứ nêu trên - HĐXX nhận thấy có đủ cơ sở để kết luận:

Ngày 14/9/2021 Vũ Thị Thanh H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe máy nhãn hiệu BOSS, kiểu dáng Dream, biển số 18E1-xxxxx trị giá 2.500.000 đồng của chị Ngô Thị N tại thôn 14, xã T, huyện T, tỉnh N.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Tính chất tội phạm nghiêm trọng thể hiện ở hành vi lén lút, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu nhằm chiếm đoạt tài sản. Bị cáo là người có đầy đủ trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện, do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi, vi phạm pháp luật của mình. Hành vi của bị cáo Vũ Thị Thanh H bị VKSND huyện T truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ: tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. HĐXX thấy bị cáo tuy chưa đủ 18 tuổi nhưng trong quá trình Toà án nhân dân huyện T đưa xét xử bị cáo đã không chấp hành và đã bỏ trốn đi khỏi địa phương dẫn đến HĐXX đã phải hoãn phiên toà xét xử bị cáo vào ngày 29/3/2022 để yêu cầu cơ quan Điều tra Công an huyện T ra lệnh truy nã, đến ngày 10/8/2022 Cơ quan Công an mới bắt được bị cáo và tạm giam bị cáo để đảo bảo việc xét xử. Do vậy HĐXX xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo một thời gian nhất định để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được thu hồi, người bị hại đã nhận được tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Vũ Thị Thanh H phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Thị Thanh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ Khoản 1 Điều 173 BLHS, điểm i, s khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51; Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Vũ Thị Thanh H 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ tạm giam 10/8/2022.

2. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ điều 135 BLHS 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Vũ Thị Thanh H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền yêu cầu, tự nguyện hoặc bị cưỡng chế theo các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội trộm cắp tài sản số 58/2022/HS-ST

Số hiệu:58/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về