Bản án về tội trộm cắp tài sản số 58/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 58/2021/HS-ST NGÀY 16/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 3 năm 2021 tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vũ Đức G - Sinh ngày: 01/01/1983, tại tỉnh Q;

Nơi cư trú: Tổ 80, khu 5, phường B, thành phố L, tỉnh Q; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Đức V và bà Trần Thị Y; Vợ con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 13/01/2017 đã hoàn thành chương trình cai nghiện ma túy tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Q.

Bị cáo bị bắt ngày 08/12/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Chu Văn C - Sinh ngày: 11/10/1998, tại tỉnh Q; Nơi cư trú: Tổ 14, khu 7, phường Cao Xanh, thành phố L, tỉnh Q; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Chu Văn C và bà Nguyễn Thị Đ; Có vợ: Hoàng Thị Thúy A (Chưa đăng ký kết hôn); Có một con: sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 08/12/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Phạm Văn H - sinh năm 2002; Địa chỉ: Khu 2, xã G, huyện L, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xử án vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Chị Trần Thị H - Sinh năm 1979; Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Nguyễn Đức M - Sinh năm 1993; Vắng mặt tại phiên tòa.

3. Anh Vũ Xuân H – sinh năm 1989; Vắng mặt tại phiên tòa.

4. Anh Vũ văn L – Sinh năm 1994; Vắng mặt tại phiên tòa.

5. Anh Hoàng Đức H – Sinh năm 1985; Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ ngày 08/12/2020, anh Phạm Văn H điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu sơn đỏ trắng, biển kiểm soát (BKS) 14L1-101... đến Nhà hàng Hương 2 thuộc tổ 3, khu 8, phường Hồng Hải, thành phố L, tỉnh Q chơi với bạn làm nhân viên tại quán và ngủ lại Nhà hàng. Anh H để chiếc xe mô tô trên tại khu vực để xe của nhà hàng, phía bên ngoài cửa phụ, có khóa cổ xe, không giao cho ai trông coi. Đến khoảng 01 giờ 30 phút cùng ngày, Vũ Đức G là nhân viên Nhà hàng Hương 2, sau khi đi chơi về đến nhà hàng Hương 2 để ngủ. Khi về đến nơi, G phát hiện thấy có 02 chiếc xe mô tô của người lạ để ở khu vực để xe của nhà hàng, không có người trông coi. Do thiếu tiền tiêu xài, G nảy sinh ý định sẽ trộm cắp xe mô tô đem bán lấy tiền. G gọi điện cho Chu Văn C là bạn của G rủ đến cùng trộm cắp xe mô tô thì C đồng ý. Một lúc sau, C một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu sơn đỏ đen, BKS 21E1-115... đến gặp G đồng thời xem qua vị trí để xe mô tô định trộm cắp. Sau đó, C chở G đi về nhà C tại tổ 14, khu 7, phường Cao Xanh, thành phố L, tỉnh Q để chuẩn bị 01 chiếc tuốc - nơ - vít để phá khóa xe mô tô. Đến khoảng 02 giờ, cả hai quay lại nhà hàng Hương 2, tại đây, G đứng bên ngoài đường cảnh giới còn C một mình đi bộ vào dùng tay bẻ khóa cổ chiếc xe mô tô BKS 14Z1- 101... của anh H, sau đó C dắt chiếc xe mô tô trên ra ngoài đường, G hỗ trợ C đẩy chiếc xe trộm cắp được về hướng khu đô thị Monbay khoảng 200m thì dừng lại. C sử dụng tuốc - nơ - vít chuẩn bị từ trước để mở hộp khóa điện, đấu nối dây điện của xe. Sau khi đã mở được điện máy xe, C điều khiển chiếc xe mô tô trộm cắp được còn G điều khiển xe mô tô của C cùng nhau đi về nhà C cất giấu để nhằm mục đích đi bán, nH chưa kịp bán thì đến 22 giờ 10 phút ngày 08/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã khám xét khẩn cấp nơi ở của C thu giữ chiếc xe trên cùng 01 thẻ ATM mang tên PHAM VAN HUNG và 01 giấy chứng nhận đăng ký của chiếc xe mô tô BKS 14Z1-101... và 01 chiếc tuốc - nơ – vít; C tự nguyện giao nộp 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng xám. Vũ Đức G đã tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô BKS 21E1- 115... và 01 điện thoại nhãn hiệu Viettel màu xanh cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L.

Kết luận định giá tài sản số 243 ngày 11/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố L, kết luận: Giá trị tài sản của xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu sơn đỏ trắng, BKS 14L1-101... tại thời điểm định giá là 32.633.200 đ (ba mươi hai triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn hai trăm đồng).

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Đức G và bị cáo Chu Văn C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bị hại anh Phạm Văn H vắng mặt tại phiên tòa nH tại cơ quan điều tra có lời khai phù hợp với lời khai của các bị cáo và phù hợp với nội dung vụ án. Tài sản bị mất là chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu sơn đỏ trắng, BKS 14L1-101.69, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, 01 thẻ ngân hàng, nay anh H đã được nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại gì.

Những người làm chứng chị Trần Thị H, anh Nguyễn Đức M, anh Vũ Xuân H, anh Vũ Văn L, anh Hoàng Đức H vắng mặt tại phiên tòa nH tại cơ quan điều tra có lời khai phù hợp với nội dung vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 33/CT-VKSHL ngày 02/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố bị cáo Vũ Đức G và Chu Văn C về tội: “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với các bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản" và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Đức G từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 08/12/2020;

Xử phạt: Bị cáo Chu Văn C từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 08/12/2020;

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không đề cập.

Về vật chứng của vụ án: Đối với các vật chứng đã trả cho bị hại và chiếc xe mô tô Honda Wave RSX, màu sơn đỏ đen, gắn BKS 21E1-115...liên quan đến vụ án khác, Cơ quan CSĐT đã tách ra để tiếp tục xác minh, điều tra, làm rõ xử lý sau, nên không đề cập giải quyết; Đối với 01 chiếc tuốc nơ vít màu đen là công cụ dùng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 02 điện thoại di động thu giữ của các bị cáo dùng vào việc phạm tội cần tịch thu phát mại sung ngân sách Nhà nước.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L và bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã trình bày và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Tại phiên tòa bị cáo Vũ Đức G và bị cáo Chu Văn C khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 02 giờ ngày 08/12/2020, tại Nhà hàng Hương 2 thuộc tổ 3, khu 8, phường Hồng Hải, thành phố L, tỉnh Q, Vũ Đức G, Chu Văn C lợi dụng sơ hở có hành vi lén lút dùng tay bẻ khóa cổ và dùng chiếc tuốc - nơ - vít mở hộp khóa điện rồi đấu nối dây điện để trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu sơn đỏ trắng, BKS 14L1-101... trị giá 32.633.200đồng (Ba mươi hai triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn hai trăm đồng) của anh Phạm Văn H.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Vũ Đức G và Chu Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Do đó cần tuyên cho các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay cả hai bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về vai trò: Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo G là người khởi xướng việc phạm tội nên giữ vai trò đầu vụ, bị cáo C là người thực hiện tội phạm nên giữ vai trò sau G.

[5] Về hình phạt: Khi lượng hình, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, nH dù có xem xét giảm nhẹ hình phạt đến đâu thì việc cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết. Bị cáo G giữ vai trò đầu vụ nhưng bị cáo C có vai trò giúp sức tích cực, là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp nên bị cáo C phải chịu mức hình phạt ngang với bị cáo G.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, màu sơn đỏ trắng, BKS 14L1- 101..., 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, 01 thẻ Ngân hàng đã được trả lại cho người bị hại nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

- Đối với 01 chiếc tuốc nơ vít màu đen, dài 17,5cm, phần tay cầm được bọc bằng cao su màu đen là công cụ dùng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 02 chiếc điện thoại di động: một điện thoại nhãn hiệu Iphone (kiểu dáng dạng Iphonhe 5) màu trắng xám và một điện thoại nhãn hiệu Viettel, màu xanh đã qua sử dụng, các bị cáo đã dùng để liên lạc việc trộm cắp, cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- Đối với chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave RSX, màu sơn đỏ đen, gắn BKS 21E1- 115... liên quan đến vụ án khác, Cơ quan CSĐT Công an thành phố L đã tách ra xác minh, điều tra, làm rõ, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Về dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[9] Luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với các bị cáo về tội danh, điều khoản truy tố, tình tiết giảm nhẹ đề nghị áp dụng là có căn cứ, phù hợp với nội dung của vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Về mức hình phạt, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo C mức hình phạt thấp hơn bị cáo G là chưa đúng, bởi lẽ bị cáo C mặc dù được xác định có vai trò sau bị cáo G, song bị cáo C lại là người chuẩn bị công cụ phạm tội, là người trực tiếp bẻ khóa lấy trộm xe và là người đấu điện để nổ xe mang đi, do vậy bị cáo C phải chịu mức hình phạt ngang bị cáo G mới phù hợp với quy định của pháp luật.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ : Khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố : Bị cáo Vũ Đức G và bị cáo Chu Văn C phạm tội: "Trộm cắp tài sản".

Xử phạt :

1. Bị cáo Vũ Đức G 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 08/12/2020.

2. Bị cáo Chu Văn C 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 08/12/2020.

Về xử lý vật chứng : Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc tuốc nơ vít màu đen, dài 17,5cm, phần tay cầm được bọc bằng cao su màu đen.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 02 chiếc điện thoại di động: một điện thoại nhãn hiệu Iphone (kiểu dáng dạng Iphonhe 5) màu trắng xám và một điện thoại nhãn hiệu Viettel, màu xanh thu của G và C.

(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 112/BB-THA ngày 03/3/2021 giữa Công an thành phố L và Chi cục thi hành án dân sự thành phố L).

Về án phí : Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Vũ Đức G và Chu Văn C, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng: Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại (anh H) vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 58/2021/HS-ST

Số hiệu:58/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về