Bản án về tội trộm cắp tài sản số 570/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 570/2023/HS-ST NGÀY 25/10/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 25 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 567/2023/TLST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 573/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Quốc O (Tên gọi khác: Không có), sinh năm: 1998 tại Hà Tĩnh.

Nơi thường trú: 113, tổ F, khu phố C, phường L, TP B, Đồng Nai.

Chổ ở hiện nay: 113, tổ F, khu phố C, phường L, TP B, Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 11/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Trần Điện 01, sinh năm 1962 (Chết) và con bà Hoàng Thị T, sinh năm 1974 (Chết);

Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 02 anh em. Chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không;

Hiện bị cáo đang tại ngoại.

- Bị hại: Chị Phạm Thị Thùy T1, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

(Bị cáo có mặt, chị T1 vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Quốc O và chị Phạm Thị Thùy T1 (sinh năm 1998, ngụ tại thôn C, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước) đều là nhân viên làm việc tại quán “B” (địa chỉ: tổ A, khu phố B, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai). Vào khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 22 tháng 12 năm 2022 chị T1 điều khiển xe chiếc môtô hiệu Honda Vario màu đỏ-đen biển số 93P2-xxxxx đến quán “Beer” để làm việc và dựng xe tại khu vực phía trước quán, sau đó cất chìa khóa xe vào tủ dành cho nhân viên đựng đồ. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, O phát hiện chiếc xe trên của chị T1 không có người trông coi và biết chỗ chị T1 để chìa khóa xe nên O đã nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe trên của chị T1. Thực hiện ý định trên, O lén lút lấy chìa khóa xe của chị T1, sau đó mở khoá xe nổ máy, điều khiển xe đi thế chấp cho bà Trần Thị p (sinh năm 1970, ngụ tổ F, khu phố C, phường T, thành phố B) để lấy chiếc xe môtô biển số 60F3-xxxxx (do O đã cầm cố cho bà P trước đó) ra. Sau khi phát hiện bị mất xe, chị T1 xem lại camera an ninh của quán thì biết được O là người đã lấy trộm xe, chị T1 liên lạc với O không được nên đã trình báo sự việc với Công an phường L lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, xử lý. Đến ngày 26 tháng 12 năm 2022, sau khi biết chị T1 đã trình báo Công an, O đã chuộc lại chiếc xe của chị T1 mang đến quán nhờ chị T2 Nguyễn Thảo L (sinh năm 2006, ngụ phường G, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng) cũng là nhân viên của quán, trả lại cho chị T1, rồi O bỏ trốn.

Vật chứng vụ án gồm:

- 01 chiếc xe môtô hiệu Honda Vario màu đỏ-đen biển số 93P2-xxxxx, là tài sản của chị Phạm Thị T3 T1 bị trộm cắp, sau khi tạm giữ để phục vụ công tác định giá, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị T1;

- 01 USB bên trong có chứa file video trích xuất từ camera an ninh của Q, ghi nhận được hành vi phạm tội của bị can O.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 115/KL-HĐĐGTS ngày 28 tháng 3 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: “01 chiếc xe môtô biển số 93P2- xxxxx, trị giá 46.800.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu, tám trăm nghìn đồng)”.

Về dân sự: Bị hại là chị Phạm Thị Thùy T1 đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bồi thường.

Tại Bản cáo trạng số 569/CT-VKSBH ngày 02 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo Trần Quốc O về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng nêu. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Trần Quốc O phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 đến 14 tháng tù giam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận vào khoảng 15 giờ ngày 22 tháng 12 năm 2022, tại quán “Hải sản D" (địa chỉ: tổ A, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai), Trần Quốc O đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe môtô hiệu Honda Vario màu đỏ-đen biển số 93P2- xxxxx, trị giá 46.800.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu, tám trăm nghìn đồng) của chị Phạm Thị Thùy T1 thì bị phát hiện, khởi tố, điều tra xử lý.

[3] Về tội danh:

Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, biên bản ghi hình và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Do đó, cần phải có mức hình phạt phù hợp cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có điều kiện giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung nhưng cũng thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phạm vào tình tiết nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét thấy, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chưa tiền án tiền sự, bị cáo đang nuôi em đi học, hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ mất sớm, là lao động chính trong gia đình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà bị cáo khai có ông nội là Trần Chí T1 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ nhưng không cung cấp được chứng cứ cho Tòa án nên không có cơ sở xem xét.

[7] Về phần dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên không ra xem xét giải quyết.

[8] Về vấn đề khác: Vật chứng đã xử lý xong nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[10] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ các Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Tuyên bố bị cáo Trần Quốc O phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Quốc O 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

2. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 570/2023/HS-ST

Số hiệu:570/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về