Bản án về tội trộm cắp tài sản số 55/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CG, TỈNH L

BẢN ÁN 55/2023/HS-ST NGÀY 05/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 5 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CG, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/2023/TLST - HS ngày 19 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2023/QĐXXST- HS, ngày 20 tháng 4 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên Phạm Nhựt S, S năm: 2002. Tên gọi khác: Tr.

Nơi thường trú: ấp Dinh Củ, xã Tam Giang Tây, huyện Ngọc H, tỉnh C; Trình độ học vấn: 03/12; Nghề nghiệp: phụ hồ; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông (không rõ) và bà Phạm Thị Hồng A; bản thân chưa có vợ, con; Tiền án – tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/3/2023 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Trần Công T, S năm: 1996 (vắng mặt). Cư trú: Ấp 4, xã Long Hậu, huyện CG, tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 16/3/2023, Phạm Nhựt S đang làm phụ hồ tại Công trình xây dựng của Công ty Tân Thái Th thuộc Ấp 2/5, xã Long Hậu, huyện CG thì phát hiện xe mô tô biển số 69N1-X của anh Trần Công T đang đậu tại sân công trình, trên xe có gắn sẵn chìa khóa, nên nảy S ý định lấy trộm xe mô tô trên để làm phương tiện đi lại. Lúc này, S đến gần xe mô tô mở khóa, điều khiển xe tẩu thoát về nhà trọ tại xã Hiệp Ph, huyện Nhà Bè, Tp. Hồ Chí Minh để lấy đồ dùng cá nhân, rồi sau đó tẩu thoát về tỉnh Bình Dương để lẫn trốn. Đến ngày 25/3/2023, anh T phát hiện S và xe mô tô của mình đang ở Bình Dương nên T đến gặp và dẫn S cùng xe mô tô đến Công an xã Long Hậu trình báo. Tại cơ quan Công an, S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận định giá tài sản số 22/KL-HĐĐGTS ngày 27/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CG, xác định: 01 (một) xe mô tô biển số 69N1-X, trị giá 9.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 51/CT-VKSCG, ngày 18/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CG truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Trần Nhựt S từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Về tang vật: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã hoàn trả: 01 (một) xe mô tô biển số 69N1-X cho bị hại Trần Công T, là phù hợp với Điều 106 Bộ luật hình sự.

Về dân sự: bị hại Trần Công T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, hiện bị hại không yêu cầu, nên đề nghị không xem xét.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo không nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Trần Nhựt S làm phụ hồ tại công trình xây dựng của Công ty Tân Thái Th thuộc Ấp 2/5, xã Long Hậu, huyện CG. Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 16/3/2023, bị cáo phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, biển số 69N1-X của anh Trần Công T để tại sân công trình xây dựng, chìa khóa còn trên ổ công tắc điện, nên đã nảy S ý định chiếm đoạt làm phương tiện đi lại. S đã lén lút thực hiện hành vi lấy trộm xe mô tô. Theo Kết luận định giá tài sản số 22/KL-HĐĐGTS, ngày 27/3/2023 kết luận giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 9.000.000 đồng. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị trên 2.000.000 đồng và dưới 50.000.000 đồng, nên hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây mất an ninh trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm.

[4] Xét về tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự: không.

[5] Xét về tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới có thể giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Xét thấy áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo cũng đủ răn đe, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[7] Về tang vật: Cơ quan CSĐT Công an huyện CG tạm giữ và hoàn trả cho anh Trần Công T 01 (một) xe mô tô biển số 69N1-X, là phù hợp với quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

[8] Về trách nhiệm dân sự: bị hại anh Trần Công T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, tại phiên tòa anh T vắng mặt nhưng theo hồ sơ thể hiện không yêu cầu (bút lục số 68-69), nên không xem xét.

[9] Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Nhựt S phạm tội Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Phạm Nhựt S 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 28/3/2023.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (05/5/2023) để đảm bảo việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Về án phí: bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 55/2023/HS-ST

Số hiệu:55/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về