Bản án về tội trộm cắp tài sản số 54/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 54/2023/HS-ST NGÀY 24/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã T xét xử sơ thẩm công khai hình thức trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm đã thụ lý số: 46/2023/TLST-HS, ngày 26/7/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2023/QĐXXST-HS, ngày 09/8/2023 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Sỹ Đ, sinh năm 1994.

HKTT: Thôn Chi Nhị, xã S, huyện G, tỉnh Bắc Ninh; trình độ văn hoá: 6/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Sỹ H, sinh năm 1962 và bà Lê Thị V, sinh năm 1963; bị cáo là con duy nhất trong gia đình; chưa có vợ.

Tiền án:

+ Ngày 21/12/2018 bị Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 08 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 11/10/2019.

+ Ngày 19/10/2020 bị Tòa án nhân dân huyện G xử phạt 16 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 14/11/2021.

Tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Ngày 07/2/2018 bị Công an huyện G xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000đ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Đã nộp tiền ngày 30/10/2018.

+ Ngày 07/9/2018 bị Công an huyện G xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000đ về hành vi trộm cắp tài sản. Đ chưa nộp tiền phạt.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/4/2023 đến nay (có mặt tại điểm cầu trực tuyến tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh).

2. Trần Ngọc H2, sinh năm 1978.

HKTT: Thôn Chi Nhị, xã S, huyện G, tỉnh Bắc Ninh; trình độ văn hoá: 8/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc R (đã chết) và bà Hoàng Thị B, sinh năm 1950; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con út; vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1980; có 03 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/5/2023 đến nay (có mặt tại điểm cầu trực tuyến tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh).

Người bị hại: Anh Nguyễn Văn Đ1, sinh năm 1978 (vắng mặt).

Trú tại: Thôn Nhiễm Dương, xã N, thị xã T, Bắc Ninh.

Người tham gia tố tụng khác: Ông Hoàng Phương N, cán bộ tin học.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ ngày 21/4/2023, Hoàng Sỹ Đ đi bộ sang nhà Trần Ngọc H2 để rủ H đi ra thị xã T mục đích xem có ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đến thì chỉ có một mình H ở nhà, Đ nói với H: “anh chở em đi ra nhà bạn ở thị xã T”, H đồng ý và điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ đen, BKS: 99F1-450.xx đi sang thị xã T. Khi đi Đ mặc áo sơ mi nam dài tay màu đen, trắng có nhiều họa tiết, mặc quần bò màu xanh, đi dép nhựa màu đen, đeo khẩu trang, đội mũ bảo hiểm màu đen. H mặc áo khoác dài tay màu đen, mặc quần dài thô màu vàng, đi giầy màu đen, đeo khẩu trang và đội mũ bảo hiểm màu đen. H điều khiển xe mô tô đi theo hướng đê Đại Hà ra đường QL 38 rồi đi về hướng xã N, thị xã T.

Khi đi đến đoạn ngã tư Đ Côi, Đ có nói với H: “dạo này em nợ nhiều quá may có anh chở đi”. Nghe Đ nói vậy, H hiểu là Đ nhờ H chở Đ sang thị xã T để trộm cắp tài sản. H chở Đ đi đến thôn Nhiễm Dương, xã N đi lòng vòng xem có nhà ai sơ hở sẽ trộm cắp tài sản. Khi đi qua cổng nhà anh Nguyễn Thế Đ, Đ thấy trong sân có dựng 01 xe mô tô, hiệu Honda Wave màu đen bạc, BKS: 99F1-609.xx, đầu xe hướng vào trong nhà còn đuôi xe hướng ra ngoài cổng. Đ bảo H quay đầu xe và đứng ở ngoài đường để cảnh giới. Đ đi bộ vào nhà anh Đáng thì thấy cổng không khóa, Đ mở chốt cổng đi vào trong sân. Từ cổng đến vị trí dựng xe khoảng 5 - 6 mét, Đ thấy chìa khóa xe vẫn cắm ở ổ khóa và không khóa càng, Đ dắt xe lùi ra khỏi cổng. Thấy Đ lấy được xe, H điều khiển xe đi trước, Đ đi phía sau. Khi đi đến đường QL 38 đoạn gần trạm bơm xã N thì Đ không nhìn thấy H đâu nên tiếp tục điều khiển xe đi về hướng cầu Hồ. Đ điều khiển xe đến giữa cầu Hồ thì dừng xe, mở cốp lấy cà lê tháo biển kiểm soát của xe, cởi bỏ mũ bảo hiểm, áo sơ mi dài tay đang mặc và ném tất cả xuống sông Đuống rồi điều khiển xe đi về nhà. Khi về đến nhà Đ lấy BKS: 29G1-118.xx Đ nhặt được trên đê Đại Hà, thuộc địa phận huyện G khoảng tháng 01/2023 lắp vào xe mô tô vừa trộm cắp.

Cùng ngày 21/4/2023, qua trích xuất Camera tại cổng và sân nhà anh Đáng, Cơ quan CSĐT Công an thị xã T đã triệu tập Đ đến để làm việc. Đ xin đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi cùng H trộm cắp xe mô tô của anh Nguyễn Thế Đ, đồng thời tự giác giao nộp 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen bạc; 01 BKS: 29G1-118.xx; 01 quần bò dài màu xanh, 01 dép nhựa màu đen Đ sử dụng khi đi trộm cắp tài sản.

Tại kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá đã xác định chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen bạc có giá trị là 15.000.000đ.

Ngày 10/5/2023 Trần Ngọc H2 đã đến Công an thị xã T đầu thú, đồng thời giao nộp 01 xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ đen, BKS: 99F1- 450.xx; 01 áo khoác dài tay màu đen; 01 đôi giày màu đen và 01 quần dài thô màu vàng H mặc khi đi trộm cắp xe mô tô.

Bản cáo trạng số: 51/CT-VKSTT, ngày 25/72023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã truy tố Hoàng Sỹ Đ về tội “trộm cắp tài sản”, theo điểm g, khoản 2, điều 173 Bộ luật hình sự; truy tố Trần Ngọc H2 về tội “trộm cắp tài sản”, theo khoản 1, điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Hoàng Sỹ Đ, Trần Ngọc H2 về tội “trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm g, khoản 2, điều 173; điều 38; điểm s, khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Đ từ 26 đến 32 tháng tù.

Áp dụng khoản 1, điều 173; điều 65; điểm i, s, khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt H từ 09 đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng. Trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.

Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 biển kiểm soát 29G1-118.xx; 01 quần bò dài màu xanh, 01 dép nhựa màu đen của bị cáo Đ.

+ 01 áo khoác dài tay màu đen; 01 đôi giày màu đen và 01 quần dài thô màu vàng của bị cáo H.

Các bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thị xã T,Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng đã thu hồi được và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 13h ngày 21/4/2023 tại sân nhà anh Nguyễn Thế Đ ở thôn Nhiễm Dương, xã N, thị xã T. Hoàng Sỹ Đ và Trần Ngọc H2 đã có hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen bạc, BKS: 99F1-609.xx trị giá 15.000.000đ của anh Nguyễn Thế Đ. Hành vi của bị cáo Đ đã phạm tội “trộm cắp tài sản” theo điểm g, khoản 2, điều 173 Bộ luật hình sự; bị cáo H phạm tội “trộm cắp tài sản”, theo khoản 1, điều 173 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã truy tố là đúng người, đúng tội.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, rất táo bạo và liều lĩnh, đã gây mất trật tự trị an trên địa bàn thị xã T, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, dư luận xã hội đòi hỏi phải xử lý nghiêm. Bởi vậy, cần phải có một hình phạt nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét về vai trò các bị cáo thì thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong vụ án này bị cáo Đ giữ vai trò chính, là người khởi xướng việc trộm cắp, là người thực hành trực tiếp trộm cắp tài sản của anh Đáng, do vậy khi quyết định hình phạt cần buộc bị cáo Đ phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn bị cáo H.

Xét về nhân thân bị cáo Đ thì thấy: Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 07/2/2018 bị Công an huyện G xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000đ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đã nộp tiền ngày 30/10/2018. Ngày 07/9/2018 bị Công an huyện G xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000đ về hành vi trộm cắp tài sản, đến nay bị cáo chưa nộp tiền phạt. Căn cứ điều 7; điều 73; điều 74 Luật xử lý vi phạm hành chính thì không coi là tiền sự nữa.

Bị cáo đã có 02 tiền án: Ngày 21/12/2018 bị Tòa án nhân dân huyện G xử phạt 08 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, ra trại ngày 11/10/2019. Ngày 19/10/2020 bị Tòa án nhân dân huyện G xử phạt 16 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, ra trại ngày 14/11/2021. Bị cáo chưa được xóa án mà lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm g, khoản 2, điều 173 Bộ luật hình sự. Bởi vậy cần phải có một hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét thấy, sau khi phạm tội đã đến Công an đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay đã thành khẩn khai báo, đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt.

Đối với bị cái H: Xét thấy, bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội đã đến Công an đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hối cải, đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s, khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Do vậy, cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện cải tạo, giáo dục.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Chiếc mô tô hiệu Honda Wave màu đen bạc BKS bị mất là: 99F1 - 609.xx đã được cơ quan điều tra trả lại cho anh Nguyễn Thế Đ, đối với chiếc BKS: 99F1 - 609.xx của xe mô tô, sau khi trộm cắp xe mô tô Đ đã tháo biển kiểm soát ném xuống sông Đuống. Nay anh Đáng không có yêu cầu bồi thường, do vậy không xem xét.

[4] Về vật chứng: Cơ quan điều tra có thu giữ 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Vision, màu sơn đỏ đen, BKS: 99F1 - 450.xx. Đây là xe của chị Nguyễn Thị Yến, sinh năm 2003 ở khu phố Xuân Lê, phường Xuân Lâm, thị xã T là con dâu H, chị Yến không biết H sử dụng xe mô tô để trộm cắp tài sản. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Yến chiếc xe trên là phù hợp.

Cơ quan điều tra có thu giữ của bị cáo Đ: 01 biển kiểm soát 29G1-118.xx;

01 quần bò dài màu xanh, 01 dép nhựa màu đen Đ sử dụng khi đi trộm cắp tài sản. Cơ quan điều tra có thu giữ của bị cáo H: 01 áo khoác dài tay màu đen; 01 đôi giày màu đen và 01 quần dài thô màu vàng H mặc khi đi trộm cắp xe mô tô. Xét thấy những tài sản trên không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 biển kiểm soát 29G1-118.xx là biển kiểm soát giả, cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hoàng Sỹ Đ, Trần Ngọc H2 phạm tội “trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g, khoản 2, điều 173; điều 38; điểm s, khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự; khoản 1, 3 điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự:

Xử phạt: Hoàng Sỹ Đ 26 (hai mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/4/2023. Tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày 24/8/2023 để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng khoản 1, điều 173; điều 65; điểm i, s, khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự; điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự:

Xử phạt: Trần Ngọc H2 9 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Trả tự do ngay cho bị cáo tại phiên tòa nếu không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Giao bị cáo cho UBND xã S, huyện G, tỉnh Bắc Ninh nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1, điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c, khoản 2, điều 106; điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về án phí, lệ phí Toà án:

Tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 biển kiểm soát 29G1-118.xx; 01 quần bò dài màu xanh, 01 dép nhựa màu đen của bị cáo Đ.

+ 01 áo khoác dài tay màu đen; 01 đôi giày màu đen và 01 quần dài thô màu vàng của bị cáo H.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 54/2023/HS-ST

Số hiệu:54/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về