Bản án về tội trộm cắp tài sản số 52/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TS, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 52/2022/HS-ST NGÀY 06/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06/7/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TS, tỉnh Thanh Hóa mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 41/2022/TLST-HS ngày 24/5/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Bùi Văn B – Sinh năm 1995. Nơi ĐKNKTT: Thôn 14, xã T, huyện TS, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Mường; giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn K, sinh năm 1972 (đã chết) và bà Hà Thị H, sinh năm 1972, hiện đang lao động tự do tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; Gia đình có 3 anh em, bị cáo là con thứ hai.

Tiền án, tiền sự: Không

*Bị hại: Anh Nguyễn Đình Q, sinh năm: 1983; Địa chỉ: Thôn 14, xã T, huyện TS, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Quách Văn Q, sinh năm: 1999; Địa chỉ : Thôn 8, xã T, huyện TS, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các lài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ, ngày 26/01/2022 Bùi Văn B đi ngang qua nhà ông Bùi Văn D, địa chỉ: Thôn 14, xã T, huyện TS thì phát hiện 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng - xanh, biển biểm soát 36B7 - 016.xx dựng ở sân, quan sát thấy không có người, Bùi Văn B nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy trên để bán lấy tiền chi tiêu cá nhân nên đi vào nhưng thấy có người, B đi về. Một lát sau B quay lại trộm cắp chiếc xe, do xe máy khóa cổ nên B dùng tay vừa kéo, vừa đẩy xe máy đi về nhà. Về đến nhà B lấy kìm tháo ổ khóa xe máy và dùng tay giật yên xe thì thấy trong cốp xe có một số giấy tờ nên đóng lại và tiếp tục tháo 2 cánh yếm, đấu điện, nổ máy và đi đến nhà bà Hà Thị B, sinh năm 1966 (là bác ruột) ở thôn Mó 2, xã Cán Khê, huyện Như Thanh cất giấu 02 cánh yếm phía sau nhà và ngủ lại.

Những ngày tiếp theo, Bùi Văn B sử dụng xe máy đã trộm cắp làm phương tiện đi lại, chưa kịp bán thì nghe thông tin hành vi trộm cắp của bản thân bị phát hiện.

Ngày 30/1/2022, B đem xe máy đến ngõ nhà ông Vi Văn T (bố vợ anh Nguyễn Đình Q) bỏ lại, mục đích là để trả lại cho anh Q.

Ngày 25/2/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Ủy ban nhân dân huyện TS định giá xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng - xanh, biển biểm soát 36B7 - 016.xx trị giá 9.800.000đ.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và yêu cầu Bùi Văn B bồi thường 1.500.000đ để mua, lắp 02 cánh yếm.

Về vật chứng vụ án và đồ vật, tài liệu đã thu giữ: 01 giấy chứng nhận đăng ký xe máy mang tên Quách Văn Q (bản sao), 01 chiếc kìm màu vàng đã qua sử dụng, 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng - xanh, biển biểm soát 36B7 - 016.xx.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Nguyễn Văn Q 01 xe máy và 01 giấy phép lái xe (bản sao).

Đối với 02 cánh yếm của xe máy trộm cắp, B khai cất giấu ở sau nhà bà Hà Thị B, Cơ quan điều tra tiến hành truy tìm, thu giữa nhưng không có kết quả.

*Tại bản Cáo trạng số 39/CT-VKS - TS ngày 20 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TS truy tố bị cáo Bùi Văn B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản” -Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Hình phạt đối với bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

-Về dân sự: Buộc bị cáo Bùi Văn B phải bồi thường cho anh Nguyễn Đình Q 02 cánh yếm xe máy trị giá 600.000đ.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc kìm đã qua sử dụng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận đối với Viện kiểm sát, lời nói sau cùng bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đều đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội cụ thể như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 26/01/2022, Bùi Văn B đi bộ đến nhà ông Bùi Văn D ở thôn 14, xã T, huyện TS trộm cắp 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng xanh, BKS 36B7-016.xx của anh Quách Văn Q cho anh Nguyễn Đình Q mượn, trị giá 9.800.000đ.

Sau khi trộm cắp được xe máy B đem xe đến nhà bác ruột là bà Hà Thị B ở xã Cán Khê, huyện Như Thanh, chưa kịp bán thì biết hành vi của mình bị phát hiện, ngày 30/1/2022, B đem xe máy trộm cắp được đến ngõ nhà ông Vi Văn T (bố vợ anh Q) bỏ lại, mục đích để trả lại cho anh Q.

Xét thấy lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Bùi Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TS truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo vì động cơ, mục đích tư lợi, lười lao động, lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác trong quản lý tài sản của chủ sở hữu đã lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, đồng thời gây mất trật tự trị an, gây bất bình trong quần chúng nhân dân nên cần xử lý nghiêm để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiệm trọng, là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội mà cho cải tạo, giáo dục dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng đủ sức răn đe giáo dục bị cáo. Do vậy áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự đối với bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo.

Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[5] Về dân sự:

Anh Nguyễn Đình Q yêu cầu bị cáo bồi thường 2 cánh yếm xe máy trị giá 1.500.000đ. Tuy nhiên tại Biên bản xác minh của Cơ quan điều tra thể hiện 2 cánh yếm của xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng xanh lắp mới có giá 600.000đ, do đó căn cứ Điều 584, 585, 589 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Nguyễn Đình Q 02 yếm xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng xanh máy trị giá 600.000đ.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 173; điểm i, s khoản 1 điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn B, phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn B: 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 (Hai mươi tư) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Bùi Văn B cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện TS, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã T trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Về dân sự: áp dụng Điều 584, 585, 589 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Nguyễn Đình Q 2 cánh yếm xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius trị giá 600.000đ

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc kìm bằng kim loại màu vàng đã qua sử dụng. (Theo biên bản giao nhận vật chứng số 50/VC/2022 ngày 15/6/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện TS)

- Áp dụng Điều 135, 136, Điều 333 BLTTHS; khoản 1 Điều 21 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14. Buộc bị cáo Bùi Văn B phải chịu 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch. Tổng 2 khoản = 500.000đ Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 52/2022/HS-ST

Số hiệu:52/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về