Bản án về tội trộm cắp tài sản số 51/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 51/2022/HS-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22/9/2022, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện N và điểm cầu Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 49/2022/HSST ngày 18/8/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2022/QĐXXST-HS ngày 12/9/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn Ph; tên gọi khác: không;

Sinh ngày 05 tháng 5 năm 1995, tại Lai Châu;

Nơi ĐKHKTT: Bản Phiêng Diểm, xã C, huyện S, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; Chức vụ, đảng, đoàn thể: không; Con ông Lò Văn Th, sinh năm 1975 và con bà Cao Thị K, sinh năm 1976; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ: Điêu Thị H, sinh năm 1998;

Con: Bị cáo có 01 người con, sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không Về nhân thân: Theo Bản án số 85/2014/HSST ngày 29/9/2014, Lò Văn Ph bị Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Lai Châu xử phạt 03 tháng 24 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Tính đến thời điểm phạm tội, bị cáo đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/5/2022, chuyển tạm giam từ ngày 06/6/2022, tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh Lai Châu cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng khác:

* Bị hại:

- Anh Mào Văn H, sinh năm 1971 Trú tại: Bản Co Mủn, xã L, huyện N, tỉnh Lai Châu (vắng mặt có lý do).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Đặng Trọng Th, sinh năm 1964 Trú tại: Bản M, xã M, huyện S, tỉnh Lai Châu (vắng mặt có lý do).

* Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1973 Trú tại: Khu phố 5, thị trấn S, huyện S, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).

2. Anh Lù Văn Th, sinh năm 1975 Trú tại: Bản Chang, xã L, huyện N, tỉnh Lai Châu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 27/5/2022, Lò Văn Ph đi bộ trên đường tỉnh lộ 127 từ bản Chợ, xã L, huyện N vào thị trấn N, mục đích để tìm việc làm. Khi đến Km 2+800 tỉnh lộ 127 thuộc địa phận xã L, Ph nhìn thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, màu đỏ bạc, biển kiểm soát 25F3-75.xx đang dựng bên tà luy âm đường, là xe của ông Mào Văn H, sinh năm 1971, trú tại bản Co Mủn, xã L, huyện N, tỉnh Lai Châu, đi thăm ruộng để bên đường. Quan sát thấy không có ai trông coi, Ph lại gần xe, thấy xe không có chìa khóa, Ph dùng tay rút dây điện ổ khóa, sau đó nối lại nguồn điện để nổ máy và điều khiển xe đi lên thị trấn S, mục đích để tìm nơi tiêu thụ. Khi đến cầu Lai Hà thuộc xã L, huyện N, Lù Văn Th, sinh năm 1975 trú tại bản Chang, xã L, huyện N, tỉnh Lai Châu, quan sát thấy Lò Văn Ph chạy xe đi qua. Trên đường đi, Ph thấy một bên biển số xe rơi ra, Ph tháo hẳn biển số vứt xuống đường. Khi Ph đi đến xã M, huyện S, tỉnh Lai Châu thì xe chết máy. Không nổ được xe, Ph đẩy xe vào lề đường, sau đó đi bộ một đoạn thì xin đi nhờ xe của một người đi đường không quen biết để đi lên thị trấn S. Khi đi đến cửa hàng tap hóa Đặng Trọng Th, sinh năm 1964, trú tại bản M, xã M, huyện S, tỉnh Lai Châu, Ph hỏi Th có mua xe máy hỏng không, Th hỏi xe có giấy tờ gì không, Ph trả lời xe cũ nên giấy tờ đã bị mất hết; Th bảo xe bị mất giấy tờ thì không được giá cao, chỉ mua với giá sắt vụn thôi và trả với giá 650.000 đồng. Ph đồng ý và cùng Th đi xe ô tô của Thủy đến chở chiếc xe mô tô trên. Thấy anh Th lên thị trấn S, Ph xin đi nhờ đến cây xăng thị trấn S, Sau khi nhận đủ tiền bán xe từ Th, Ph xuống xe và đi đến bản Dao, thị trấn S. Mua được xe Th đã gửi xe tại xưởng sửa chữa xe Nguyễn Văn H, sinh năm 1973, trú tại khu phố 5, thị trấn S, huyện S, tỉnh Lai Châu nhờ bán hộ. Số tiền bán xe ph đã tiêu dùng cá nhân hết.

Ngày 27/5/2022, anh Mào Văn H gửi đơn trình bào sự việc đến Công an xã L huyện N trình báo sự việc.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 05/KL-HĐĐGTS ngày 03/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thuộc UBND huyện N kết luận:

01 Xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại SIRIUS màu sơn Đỏ - Bạc; biển kiểm soát 25F3- 75.xx, mua mới và sử dụng từ tháng 4 năm 2008, còn trị giá thực tế là 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng);

Cáo trạng số 35/CT- VKS ngày 18/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Lò Văn Ph về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Lai Châu vẫn giữ nguyên quan điểm như quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn Ph từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản"; đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, gia đình bị cáo là hộ nghèo nên đề nghị miễn án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Từ các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời trình bày của bị cáo, ý kiến của bị hại. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định:

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn Ph đã khai nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án, do đó Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở để khẳng định: Ngày 27/5/2022, lợi dụng sơ hở của anh Mào Văn H, trú tại bản Co Mủn, xã L, huyện N, tỉnh Lai Châu, Lò Văn Ph đã trộm cắp 01 Xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại SIRIUS màu sơn Đỏ - Bạc; biển kiểm soát 25F3- 75.xx, có trị giá là 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng);

Do đó, hành vi trên của bị cáo Lò Văn Ph đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Vì vậy, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3]. Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an trên điạ bàn. Bị cáo không chịu lao động chân chính để kiếm tiền một cách hợp pháp mà đã cố ý phạm tội. Bị cáo nhận thức được hành vi "Trộm cắp tài sản" của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội mà mình gây ra. Xong khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng cần xem xét:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lò Văn Ph không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét về nhân thân của bị cáo: Ngày 29/9/2014, bị cáo Lò Văn Ph đã bị Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Lai Châu xét xử 03 tháng 24 ngày tù về tội Trộm cắp tài sản, tính đến thời điểm phạm tội bị cáo đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân. Nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc hơn với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có cơ hội tu dưỡng, rèn luyện và cải tạo bản thân thành công dân có ích cho xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện hoàn cảnh kinh tế của bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[4]. Về vật chứng của vụ án:

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ của Đặng Trọng Th 01 Xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại SIRIUS màu sơn Đỏ - Bạc; biển kiểm soát 25F3- 75.xx đã mua của Lò Văn Ph, quá trình điều tra xét thấy đây là tài sản hợp pháp của anh Mào Văn H trú tại bản Co Mủn, xã L, huyện N, tỉnh Lai Châu, nên cơ quan điều tra huyện N đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Mào Văn H theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án: Đối với Đặng Trọng Th là người đã mua chiếc xe máy của Lò Văn Ph, quá trình điều tra xác định anh Đặng Trọng Thủy không biết tài sản trên là do Lò Văn Phphạm tội mà có, do đó hành vi của Đặng Trọng Thủ không cấu thành tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có".

Đối với Nguyễn Văn H: Kết quả điều tra xác định, khi Đặng Trọng Th đến gửi xe tại xưởng sửa xe của H nhờ bán hộ, H không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có do đó hành vi của Nguyễn Văn H không cấu thành tội "chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có".

[5]. Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại anh Mào Văn H đã nhận lại chiếc xe mà bị cáo Lò Văn Ph trộm cắp và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đặng Trọng Th, trong quá trình điều tra và tại đơn xin xét xử vắng mặt, bị hại Mào Văn H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đặng Trọng Th đều không yêu cầu bị cáo Lò Văn Ph phải bồi thường gì thêm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đặng Trọng Th cũng không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền mà anh Th đã mua chiếc xe mô tô của bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lò Văn Ph là gia đình thuộc hộ nghèo nên cần áp dụng điểm đ Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên! 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lò Văn Ph phạm tội: "Trộm cắp tài sản".

1. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lò Văn Ph 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 31/5/2022.

Áp dụng khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự, miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn Ph.

3. Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 51/2022/HS-ST

Số hiệu:51/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Nhùn - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về