Bản án về tội trộm cắp tài sản số 51/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 51/2021/HS-PT NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 576/2020/HSPT ngày 02/12/2020 đối với các bị cáo Lương Văn V, Nguyễn Thị Bích N do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bản án hình sự sơ thẩm số 119/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình.

Các bị cáo bị kháng nghị:

1. Lương Văn V, sinh năm 1996 tại Long An; nơi thường trú: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông không rõ và bà không rõ; có vợ Nguyễn Thị Bích N (không đăng ký kết hôn) và 02 con sinh năm 2019 và năm 2020; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt, tạm giam ngày 08/8/2020. (có mặt).

2. Nguyễn Thị Bích N, sinh năm 1997 tại Cần Thơ; nơi thường trú: quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nữ; quốc tịch: Việt Nam; con ông không rõ và bà Nguyễn Thị P; có chồng Lương Văn V (không đăng ký kết hôn) và 02 con sinh năm 2019 và năm 2020; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt, tạm giam ngày 08/8/2020. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lương Văn V và Nguyễn Thị Bích N sống chung với nhau như vợ chồng, không có đăng ký kết hôn. Khoảng 18 giờ ngày 07/8/2020, trong lúc đang ngồi tại công viên Hoàng Văn Thụ, do không có tiền tiêu xài nên V rủ N đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp, N đồng ý. Khi đi đến trước hẻm 381 Hoàng Văn Thụ, Phường 2, quận Tân Bình, cả hai phát hiện bên hông nhà số 381/2 Hoàng Văn Thụ có dựng 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, biển số 79S1-0789 của chị Huỳnh Thị Ngọc Thư không khóa cổ xe. V kêu N đi đến cột điện gần đó cảnh giới, còn V đi vào trong hẻm, lén lút tiếp cận, lấy được chiếc xe và cùng N đẩy bộ chiếc xe đến trước khách sạn TTC, số 315 Hoàng Văn Thụ, Phường 2, quận Tân Bình thì dừng lại. V dùng hai tay giật mạnh bửng xe ra, giật đứt dây điện ổ khóa xe để đấu hai đầu dây điện nhằm kích nổ máy xe thì bị Đỗ Văn Tài (người được chị Thư nhờ trông giữ xe giùm) truy tìm đến và cùng quần chúng bắt giữ V và N giao Công an Phường 2, quận Tân Bình giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Lương Văn V và Nguyễn Thị Bích N đã khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 186 ngày 14/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Tân Bình kết luận: chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, biển số 79S1-0789 trị giá 7.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 119/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Lương Văn V, Nguyễn Thị Bích N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Lương Văn V 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/8/2020.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s, n khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Thị Bích N 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/8/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Lương Văn V, Nguyễn Thị Bích N không kháng cáo.

Ngày 20/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 64/QĐ-VKS kháng nghị toan bộ bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sửa bản án về phần hình phạt theo hướng giảm hình phạt cho các bị cáo Lương Văn V, Nguyễn Thị Bích N.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, các bị cáo Lương Văn V, Nguyễn Thị Bích N đã thừa nhận các hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định bản án sơ thẩm đã áp dụng đúng các căn cứ pháp luật để xét xử các bị cáo Lương Văn V, Nguyễn Thị Bích N về tội danh “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm các bị cáo không kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị trong thời hạn luật định. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Lương Văn V mức án 01 năm tù, bị cáo Nguyễn Thị Bích N 09 tháng tù là chưa phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, thiệt hại thực tế xảy ra và điều kiện, hoàn cảnh của các bị cáo. Bởi lẽ: bị cáo Lương Văn V có 03 tình tiết giảm nhẹ theo điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo Nguyễn Thị Bích N có 04 tình tiết giảm nhẹ theo các điểm h, i, s, n khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; cả hai bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có 01 con chung sinh năm 2019. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo Nguyễn Thị Bích N đang mang thai 26 tuần tuổi, tài sản chiếm đoạt trị giá 7.000.000 đồng đã thu hồi trả lại cho bị hại. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng nghị số 64/QĐ-VKS ngày 20/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt theo hướng giảm cho các bị cáo Lương Văn V, Nguyễn Thị Bích N một phần hình phạt, đề nghị xử phạt bị cáo V từ 06 đến 09 tháng tù, bị cáo N thời hạn tù bằng thời hạn tạm giam.

Các bị cáo Lương Văn V, Nguyễn Thị Bích N không tranh luận, chỉ nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Tân Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân quận Tân Bình, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, các bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, các bị cáo Lương Văn V, Nguyễn Thị Bích N đã thừa nhận hành vi sai trái do các bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Cụ thể: ngày 07/8/2020, sau khi bàn bạc đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp, Lương Văn V, Nguyễn Thị Bích N phát hiện bên hông nhà số 381/2 Hoàng Văn Thụ có dựng 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, biển số 79S1-0789 của Huỳnh Thị N Thư không khóa cổ xe. V kêu N đi đến cột điện gần đó cảnh giới, còn V đi vào trong hẻm, lén lút tiếp cận, lấy được chiếc xe và cùng N đẩy bộ chiếc xe đến trước khách sạn TTC, số 315 Hoàng Văn Thụ, Phường 2, quận Tân Bình để V đấu dây điện nhằm kích nổ máy xe thì bị bắt giữ cùng tang vật. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 186 ngày 14/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Tân Bình kết luận: chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, biển số 79S1-0789 trị giá 7.000.000 đồng.

Li khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Lương Văn V, Nguyễn Thị Bích N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo:

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật hình sự; có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại thuộc trường hợp phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; bị cáo N phạm tội khi đang mang thai.

Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo Lương Văn V các tình tiết giảm nhẹ theo điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 và áp dụng cho bị cáo Nguyễn Thị Bích N các tình tiết giảm nhẹ theo các điểm h, i, s, n khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là đúng quy định.

Ngoài các tình tiết trên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét nhân thân của các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; các bị cáo có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi (mới sinh con năm 2019); đã được bị hại bãi nại theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là có thiếu sót nên cần áp dụng thêm cho các bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo V là người khởi xướng, rủ rê bị cáo N đi trộm cắp tài sản, khi thấy tài sản của bị hại sơ hở, V đã phân công cho N ở ngoài cảnh giới và trực tiếp vào lén lút chiếm đoạt xe gắn máy của bị hại. Sau khi trộm cắp được, chính V là người tìm cách đấu dây điện để nổ máy tẩu thoát. Bị cáo phạm tội với vai trò chủ mưu và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như kể trên, nhưng xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy mức án 01 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt với bị cáo là phù hợp nên không chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát và kháng nghị đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Lương Văn V.

Đối với bị cáo Nguyễn Thị Bích N phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức, có vai trò không đáng kể, mức độ phạm tội có phần hạn chế, bản thân bị cáo bị rủ rê, lôi kéo từ bị cáo V. Bị cáo có 04 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 và nhiều tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên có đủ căn cứ để áp dụng thêm khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt bị truy tố, xét xử.

Tính đến phiên tòa hôm nay, thời gian tạm giam bị cáo đã hơn 05 tháng, để tạo điều kiện cho bị cáo sớm tái hòa nhập cộng đồng, có điều kiện nuôi con nhỏ, lao động và sửa chữa lỗi lầm, trở thành người lương thiện sống có ích cho xã hội và thể hiện tinh thần nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật hình sự đối với người phạm tội lần đầu. Hội đồng xét xử xét thấy chỉ cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt bằng với thời gian bị cáo đã bị tạm giam và trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam bởi một tội phạm khác cũng đủ tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng nghị phúc thẩm số 64/QĐ-VKS ngày 20/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị Bích N.

Do không kháng cáo nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Chp nhận một phần kháng nghị phúc thẩm số 64/QĐ-VKS ngày 20/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, sửa bản án sơ thẩm số 119/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình.

Tuyên bố các bị cáo Lương Văn V, Nguyễn Thị Bích N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Lương Văn V 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/8/2020.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 54; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Thị Bích N 05 (năm) tháng 18 (mười tám) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/8/2020, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.

n cứ khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự, trả tự do cho bị cáo Nguyễn Thị Bích N ngay tại phiên tòa, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 51/2021/HS-PT

Số hiệu:51/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về