Bản án về tội trộm cắp tài sản số 50/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 50/2022/HS-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị B, sinh năm 1981; nơi cư trú: Thôn 5, xã PV, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 3/12; giới tính: Nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; con ông: Nguyễn Duy L (đã chết) và bà Phạm Thị T, sinh năm 1952; chồng: Nguyễn Thanh T, sinh năm 1983; con: có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 03/01/2022 đến ngày 11/01/2022 bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đến nay; có mặt.

* Bị hại: Chị Trần Thị H, sinh năm 1992; địa chỉ: Tiểu khu CG, thị trấn KK, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Phạm Thị T, sinh năm 1952; địa chỉ: Thôn 2, xã PV, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1983; có mặt.

2. Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1999; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 02/01/2022, Nguyễn Thị B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead biển kiểm soát 90B3-368.30 chở mẹ đẻ là bà Phạm Thị T, đến chợ Do Nha thuộc tổ dân phố Do Nha, phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý để mua quần áo. B và bà T đi vào sạp bán quần áo do chị Trần Thị H và chị Vũ Thị T làm chủ để tìm mua áo cho bà T. B cùng bà T vào khu vực phía trước sạp quần áo để thử nhưng không ưng ý nên đi vòng ra phía sau sạp lấy áo trong bó quần áo phía sau chị H ngồi để chọn nhưng không chọn được chiếc nào ưng ý. Khi B đứng dậy thì phát hiện chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu trắng - đen trên mặt sạp ở sau lưng chị H. B quan sát thấy chị H và chị T đang mải bán hàng và không có ai để ý. B cầm chiếc điện thoại nhét vào túi quần của mình rồi bảo bà T đi về. Trên đường quay ra, B thấy bà T đang xách túi nilon màu đỏ nên cầm lấy bỏ điện thoại vào sau đó đi ra khu vực gửi xe cất vào cốp xe mô tô và đi về nhà. B khoe với chồng là anh Nguyễn Thanh T vừa nhặt được chiếc điện thoại Iphone 11. Anh T kiểm tra thì thấy có mật khẩu khóa màn hình nên nói “Điện thoại khóa thế này thì làm sao sử dụng được, có gì cho người ta xin lại thôi”. Anh T đi chơi thì gặp chị Nguyễn Thị D ở cùng thôn nên nhờ chị D đến kiểm tra chiếc điện thoại trên. B kiểm tra điện thoại thấy có mật khẩu, trên màn hình hiển thị cuộc gọi nhỡ, tháo ốp điện thoại thì thấy có 01 căn cước công dân và 01 thẻ ATM đều mang tên Trần Thị H. Do sợ bị phát hiện, B tháo sim điện thoại, căn cước công dân và thẻ ATM cất vào trong ngăn kéo máy may.

* Thu giữ vật chứng gồm: 01 thẻ ATM, 01 căn cước công dân đều mang tên Trần Thị H, 01 sim điện thoại Vinaphone, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen trắng, 01 ốp lưng màu đen - hồng.

Ngày 03/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Nguyễn Thị B tại thôn 5, xã PV, thành phố PL. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản gì có liên quan.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 01/2022 ngày 07/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 (128G) màu đen - trắng, đã qua sử dụng giá còn 11.000.000đ; 01 ốp nhựa màu đen - hồng đã qua sử dụng giá 10.000đ.

Từ những nội dung trên, bản cáo trạng số 51/CT-VKS-PL ngày 28/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Thị B về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thị B từ 09 đến 12 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Phạm Thị T trình bày: Ngày 02/01/2022 bà đi cùng B mua quần áo, bà cũng có nhìn thấy chiếc điện thoại để ở trên sạp bán quần áo phía sau người bán hàng, nhưng bà không biết là B đã cầm chiếc điện thoại, khi về nhà B nói là nhặt được thì bà mới biết.

Người làm chứng anh Nguyễn Thanh T và chị Nguyễn Thị D đều trình bày: Chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone B nói là nhặt được, chứ không chứng kiến B nhặt được ở đâu, đến khi người mất điện thoại đến nhà yêu cầu trả lại điện thoại thì mới biết nội dung sự việc.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đối với người tham gia tố tụng là bị hại vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai và quan điểm của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Bị cáo Nguyễn Thị B đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; bản kết luận định giá tài sản và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập. Hội đồng xét xử thấy đã có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 16 giờ ngày 02/01/2022 tại chợ Do Nha thuộc tổ dân phố Do Nha, phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Thị B lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của chị Trần Thị H đã lén lút lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 (128G) màu đen - trắng trị giá 11.000.000đ, 01 ốp nhựa màu đen - hồng trị giá 10.000đ. Tổng giá trị tài sản mà B chiếm đoạt được là 11.010.000đ. Hành vi nêu trên của Nguyễn Thị B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiệm trọng. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị B là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn trong xã hội. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý nên cần xét xử B bản án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội mà bị cáo đã thực hiện. Qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người có nhân thân tốt, có nơi cư trú, có lý lịch rõ ràng. Vì vậy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, mà cho bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội mà vẫn đáp ứng được yêu cầu phòng, chống tội phạm trong cộng đồng.

- Về hình phạt bổ sung: Xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Chị Trần Thị H đã nhận lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 và không có yêu cầu, đề nghị gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 thẻ ATM, 01 căn cước công dân đều mang tên Trần Thị H, 01 sim điện thoại Vinaphone, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen trắng, 01 ốp lưng màu đen - hồng. Quá trình điều tra xác định là tài sản giấy tờ hợp pháp của chị Trần Thị H. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã trả lại các tài sản, giấy tờ trên cho chị H là phù hợp pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 65; Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị B 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Thị B cho Ủy ban nhân dân xã PV, thành phố PL, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Thị B phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 50/2022/HS-ST

Số hiệu:50/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về