Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 49/2021/HS-PT NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 34/2021/TLPT-HS ngày 03 tháng 03 năm 2021 đối với bị cáo Phạm Minh H do có kháng cáo của bị cáo Phạm Minh H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 05/2021/HS-ST ngày 25 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

Phạm Minh H, sinh ngày 16/12/1999 tại tỉnh Tiền Giang;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã A, huyện C1, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; con ông Phạm Văn M và bà Nguyễn Ngọc S; Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Cẩm T, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình có 02 anh chị; Tiền án: không, Tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, Bản án còn có bị hại Lâm Hoàng Thu N, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Văn M không có kháng cáo. Bản án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ, ngày 13/9/2020 Phạm Minh H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Ware ZX, biển kiểm soát 63B4-268.21 đến nhà đón Lâm Hoàng Thu N đi chơi, H chở N đến khách sạn Hải Lam tọa lạc khu phố 3, phường 4, thị xã C thuê phòng số 7 để nghỉ. Do thiếu tiền tiêu xài cá nhân nên khoảng 15 giờ cùng ngày nhân lúc N vào nhà tắm, H lấy trộm điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu trắng của N để trên bàn gỗ cạnh giường để vào cốp xe rồi điều khiển xe về nhà. Trên đường về nhà H ghé cửa hàng điện thoại di động Kim X do chị Nguyễn Thanh Thúy ngụ ấp Thạnh Khiết, xã A, huyện C1 để mở khóa Icloud của điện thoại vừa trộm được. Khoảng 13 giờ ngày 14/9/2020, H xin sim điện thoại 0569932272 của Võ Nhơn Q, sinh năm 2003, ngụ ấp X, xã Bình T, huyện G1, tỉnh Tiền Giang để tạo tài khoản Zalo “Tai Nam” nhắn tin cho N đến cửa hàng điện thoại Nam Tiến địa chỉ số 92 Lê Đức Thọ, phường 6, quận G, thành phố Hồ Chí Minh để chuộc lại điện thoại nhằm mục đích để N nghĩ điện thoại đã bán đi xa mà bỏ không tìm nữa. Khoảng 15 giờ cùng ngày, H cho Nguyên (chưa xác định được họ tên và địa chỉ) mượn điện thoại của N để sử dụng, sau đó H đi vắng nên Nguyên trả lại điện thoại cho cha H là ông Phạm Văn M.

Tang vật thu giữ gồm: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus màu trắng, phía trên bên ngoài mặt trước có vết nứt, phía dưới có tem bảo hành của cửa hàng điện thoại “Khang Tao”.

Bản kết luận định giá tài sản số 104 ngày 22/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã C kết luận 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus 32gb trị giá 6.175.000đ, 01 sim điện thoại Viettel trị giá 25.000đ, tổng tài sản trị giá 6.200.000đ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 05/2021/HS-ST ngày 25 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Phạm Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Minh H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo để chấp hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 04/02/2021, bị cáo Phạm Minh H kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét cho hưởng án treo.

Tại phiên toà, bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, bị cáo cho rằng đã rất ăn năn hối lỗi, hiện nay là lao động chính trong gia đình, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.

Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm cho rằng đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Minh H trong hạn luật định nên được cấp phúc thẩm chấp nhận xem xét giải quyết.

Về hành vi phạm tội và hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo cùng với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên xử phạt bị cáo mức án 06 tháng tù là phù hợp. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội 01 thời gian để co điền kiện cải tạo thành người tốt, Đại diện Vin kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Minh H đã thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu, lời thừa nhận của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng và lời khai trước đây của bị cáo tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, cụ thể: Vào ngày 13/9/2020 bị cáo đã có hành vi lén lút lấy trộm của của chị Lâm Hoàng Thu N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus 32gb trị giá 6.175.000đ, 01 sim điện thoại Viettel trị giá 25.000đ, tổng tài sản trị giá 6.200.000đ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và kết án bị cáo về tội Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có cơ sở, đúng pháp luật.

[2] Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì động cơ xấu, tham lam mà bị cáo cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác để đem về sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo, chẳng những xâm phạm nghiêm trọng đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại mà còn gây mất trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Gây tâm lý hoang mang lo sợ, bức xúc trong cộng đồng nên cần phải được xử lý nghiêm khắc nhằm răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo xin được hưởng án treo Hội đồng xét xử nhận thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ( điểm i, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự) và xử phạt bị cáo 06 tháng tù là phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên cấp sơ thẩm chưa xem xét bị cáo có nhân thân tốt, lý lịch rỏ ràng, hin bị cáo là lao động chính trong gia đình, kinh tế gia đình đang khó khăn, việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội là không cần thiết, nên Hội đồng xét xử xem xét giao bị cáo cho chính quyền địa phương, gia đình giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe bị cáo và phòng ngừa cho xã hội.

Sau khi hành vi phạm tội bị phát hiện, tài sản được thu hồi trao trả cho bi hại, không gây thiệt hại tài sản, cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, h, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là bất lợi cho bị cáo.

[4] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 355, Điểm e Khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Phạm Minh H.

Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 05/2021/HS-ST ngày 25 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 173; các Điểm b, h, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51;

Điều 50, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Minh H 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo và phải chấp hành thời gian thử thách là 01 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (23/4/2021).

Giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo đang thường trú ( xã An Thanh Thủy, huyện C1, tỉnh Tiền Giang) giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 (hai) lần trở lên, thì Tòa án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 49/2021/HS-PT

Số hiệu:49/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về