Bản án về tội trộm cắp tài sản số 453/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 453/2021/HS-PT NGÀY 02/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 412/2021/TLPT-HS ngày 29 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo W. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 199/2021/HS-ST ngày 24 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

W, sinh năm: 04/9/1981 tại Trung Quốc; nơi lưu trú tại Việt Nam: Căn hộ số A09.07 Saigon Homes, số 819 Hương Lộ 2, B1, B2, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Trung Quốc; dân tộc: Hán; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Cấp trung học; Nghề nghiệp: Buôn bán; Con ông C sinh năm 1949 và bà L sinh năm 1954, có vợ là bà H, có 1 con; anh chị em có 03 người, bị cáo là anh lớn nhất ; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/01/2020, tại Trại tạm giam Chí Hòa Công an Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo theo luật định: Ông Đỗ Hải B - Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt);

- Người phiên dịch cho bị cáo W: Bà Lê Dinh D - Phiên dịch viên (có mặt).

(Trong vụ án còn có bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến nội dung kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo W và ông Z (cùng quốc tịch Trung Quốc) quen biết nhau tại Trung Quốc. Năm 2015, ông Z đến Việt Nam sinh sống và làm việc tại nhà số 24A, phường Bình Trị Đông B, quận B2, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 14/11/2019, bị cáo W nhập cảnh vào Việt Nam để tìm việc làm, thì được ông Z đưa về nhà của ông Z ở cùng. Trong thời gian sống ở nhà ông Z, bị cáo W nhìn thấy trong phòng ngủ của ông Z có 01 két sắt và chìa khóa két sắt để dưới nệm, nên bị cáo W nảy sinh ý định lấy trộm tài sản của ông Z. Khoảng 17 giờ 30 ngày 16/11/2019, ông Z điều khiển xe ô tô bán tải hiệu Toyota Hilux màu trắng biển số 51D-522.90 chở bị cáo W và anh J (bạn của ông Z) đi ăn tối. Tại quán ăn, ông Z đưa chìa khóa xe ô tô biển số 51D-522.90, chìa khóa nhà, hộ chiếu và visa cho bị cáo W giữ. Đến 23 giờ cùng ngày, ông Z và bị cáo W thuê 02 phòng tại khách sạn Alagon, địa chỉ số 54B-56-58, đường Phạm Hồng Thái, phường Bến Thành, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh để nghỉ. Bị cáo W điều khiển xe ô tô của ông Z đến bãi giữ xe gần khách sạn để gửi. Đến khoảng 04 giờ sáng ngày 17/11/2019, bị cáo W đón xe taxi đi về nhà của ông Z lấy chìa khóa mở cửa vào nhà rồi đi lên phòng ngủ của ông Z ở tầng 2, lấy chìa khóa dưới nệm, mở két sắt gắn trên tường gần giường ngủ lấy trộm 660.000.000 đồng và 1.000 nhân dân tệ bỏ vào bịch nilon màu đen, rồi bị cáo W khóa cổng nhà, sau đó đón xe taxi về nhà thuê tại căn hộ A09.07 SaiGon Homes số 819 Hương Lộ 2, phường Bình Trị Đông B, quận B2, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 8 giờ 25 phút ngày 17/11/2019, chị Tô Thị Thanh T1 (người giúp việc) đến phát hiện có dấu hiệu bị trộm cắp tài sản nên điện thoại báo cho ông Z biết. Lúc này, ông Z xuống lễ tân của khách sạn hỏi thì được biết bị cáo W chưa trả phòng nhưng đi đâu không rõ, nên ông Z đón xe taxi về nhà kiểm tra thì phát hiện bị mất 660.000.000 đồng và 1.000 nhân dân tệ trong két sắt. Ông Z nghi ngờ bị cáo W lấy trộm nên điện thoại hỏi thì bị cáo W trả lời “Xe và tiền của mày tao đã lấy”. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, bị cáo W quay lại bãi xe lấy chiếc ô tô biển số 51D-522.90 chạy về để tại bãi giữ xe ở tầng hầm tòa nhà SaiGon Homes cất giữ. Đến ngày 18/11/2019, bị cáo W mang số tiền trộm cắp được đi đổi 660.000.000 đồng thành 179.000 nhân dân tệ, (còn giữ lại 30 triệu đồng). Sau đó, bị cáo W chuyển vào 03 tài khoản của bị cáo W tại ứng dụng Wechat 50.000 Nhân dân tệ, Chi Fu Bão 80.000 nhân dân tệ và tài khoản ngân hàng Công Thương Trung Quốc 50.000 nhân dân tệ để trả nợ. Số tiền 30 triệu đồng còn lại bị cáo W dùng để tiêu xài cá nhân. Đến ngày 14/01/2020, bị cáo W bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ khẩn cấp tại căn hộ A09.07 SaiGon Homes số 819 Hương Lộ 2, phường B1, quận B2, bị cáo W đã giao nộp xe ô tô biển số 51D-522.90 cho Cơ quan điều tra thu giữ.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo W khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

- Tại Bản kết luận giám định số 226/KLGĐ-X(V3) ngày 20/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận 01 chiếc xe ô tô biển số 51D - 522.90, số máy 2GDC556288, số khung MROJB3DD6K1901224 kết quả số khung, số máy: không thay đổi.

- Tại Bản kết luận định giá tài sản số 144/KL-HĐĐGTS ngày 10/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân quận B2 kết luận xe ôtô Toyota Hilux màu trắng biển số 51D - 522.90 có trị giá 646.776.900 đồng.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 túi nhựa màu trắng đục, 02 chai nước suối loại 500ml, 01 két sắt màu xám ngang 34cm, dài 24cm.

- Thu giữ của bị cáo W: 10.500.000 đồng, 90 USD, 300 Nhân dân tệ; 01 chứng minh nhân dân và 10 thẻ ngân hàng các loại của Trung Quốc mang tên W; 01 máy tính xách tay hiệu lenovo màu đen có chữ Thinkpad; 03 điện thoại di động hiệu Iphone, 03 điện thoại di động hiệu Oppo, 04 điện thoại di động hiệu vivo, 03 điện thoại di động hiệu Hono, 03 điện thoại di động hiệu Huawei.

- 01 USB chứa dữ liệu ghi hình bị cáo W đi vào nhà ông Z để lây trộm tài sản.

- 01 đăng ký xe, 01 giấy chứng nhận kiểm định và 01 chiếc xe ô tô biển số 51 D-522.90, hiệu Toyota Hilux, màu trắng, loại xe tải pickup cabin kép, số máy 2GDC556288, số khung MROJB3DD6K1901224 đăng ký chủ sở hữu là Công ty TNHH Thương Mại Kason. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 giấy đăng ký xe ô tô, 01 giấy chứng nhận kiểm định và 01 chiếc xe ô tô biển số 51D-522.90 hiệu Toyota Hilux cho bà Sỳ Mộng T2 là người đại diện theo ủy quyền của ông Z.

* Về trách nhiệm dân sự:

Đại diện gia đình bị cáo W đã nộp tiền khắc phục hậu quả cho bà Sỳ Mộng T2 (đại diện theo ủy quyền của ông Z) số tiền 663.400.000 đồng. Bà T2 còn yêu cầu bị cáo W bồi thường tổn thất trong kinh doanh, số tiền 500.000.000 đồng.

Tuy nhiên, tại Phiên tòa mở lần 1 vào ngày 10/3/2021, bị hại Z có bà Sỳ Mộng T2 là người đại diện theo ủy quyền xác nhận rút lại yêu cầu bị cáo W bồi thường tổn thất trong kinh doanh số tiền 500.000.000 đồng và không yêu cầu bị cáo W bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số 439/CT-VKS-P2 ngày 29/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo W bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 199/2021/HS-ST ngày 24 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo W phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo W: 11 (mười một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 14/01/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/6/2021, bị cáo W có đơn kháng cáo yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo W giữ nguyên kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do bị hại nợ tiền của bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ, căn cứ vào quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo W về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội. Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, xét xử bị cáo với mức án 11 năm tù là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo nhưng không xuất trình chứng cứ mới, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày:

Nguyên nhân gây ra vụ án dù trả hồ sơ điều tra bổ sung hai lần, liên quan máy tính không thể giải mã để chứng minh bị cáo và bị hại không nợ tiền nhau. Dù có nợ nhưng với hành động lén lút lấy tiền thì tội danh “Trộm cắp tài sản” như Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên là đúng tội. Mặc dù Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo nhưng mức án 11 năm tù vẫn là quá nặng. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, nhất là gia đình bị cáo đã bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt của người bị hại là 660.000.000 đồng và 1.000 nhân dân tệ, tình tiết khắc phục toàn bộ số tiền bị chiếm đoạt là đặc biệt quan trọng để giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo W và ông Z quen biết nhau tại Trung Quốc. Sau khi bị cáo W nhập cảnh vào Việt Nam để tìm việc thì được ông Z cho ở cùng tại nhà của ông Z tại 24A, phường Bình Trị Đông B, quận B2, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi ở chung, bị cáo phát hiện ông Z có để két sắt trong phòng và để chìa khoá két ở dưới nệm phòng ngủ nên đã nảy sinh ý định lấy trộm tài sản của ông Z. Khoảng 04 giờ ngày 17/11/2019, khi ông Z không có nhà bị cáo W đã lén lút vào nhà ông Z lấy chìa khoá mở cửa két sắt lấy trộm số tiền 660.000.000 đồng và 1.000 nhân dân tệ (tổng số tiền tương đương 663.400.000 đồng).

Hành vi nêu trên của bị cáo W đã bị Toà án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[2] Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo W kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo W là người nước ngoài, hiểu biết pháp luật Việt Nam có phần hạn chế, sau khi bị bắt được giải thích pháp luật bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái nên đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt cho người bị hại; bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên cần áp dụng các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu và xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt như Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo là có căn cứ. Tuy nhiên, xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì mức án 11 năm tù giam mà Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo là có phần nghiêm khắc. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên.

[3] Về án phí: Do Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Căn cứ khoản 4 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hướng dẫn mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1/ Chấp nhận kháng cáo của bị cáo W, sửa bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt của bị cáo W.

2/ Xử phạt bị cáo W 10 (mười) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 14/01/2020.

Tiếp tục tạm giam bị cáo W theo quyết định của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.

3/ Về án phí: Bị cáo W không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 453/2021/HS-PT

Số hiệu:453/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về