Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 44/2022/HS-ST NGÀY 15/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15/8/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xét xử vụ án hình sự thụ lý số: 38/2022/TLST-HS ngày 07/7/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2022/QĐXXST-HS ngày 02/8/2022 đối với:

Bị cáo: Lâm Văn L, sinh năm 1988; Tại Bình Phước; Nơi cư trú: ấp V, xã L, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Khơ me; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lâm Văn San, sinh năm 1950 và bà Lâm Thị Kiển, sinh năm 1953; Bị cáo chưa có vợ.

Tiền án: Không, tiền sự: Không Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đàm Văn Đ. Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bình Phước (có mặt)

*Bị hại: Chị Trần Thị Thảo Tr, sinh năm 1994 (có mặt) Địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lê Đặng Thanh Tru, sinh năm 1995 (có mặt) Địa chỉ: ấp C, xã L, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 29/01/2022, Lâm Văn L điều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius biển số: 70B1-874.70 đến cửa hàng tạp hóa “Út Hương” tại ấp Hiệp Tâm, xã Lộc Hiệp, để mua dây nylon về gói bánh. Đến nơi L gặp chị Trần Thị Thảo Tr, đang trông coi hàng, L nói chị Tr bán cho một cuộn dây, lúc này chị Tr để điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, loại XS Max màu đen có gắn ốp lưng màu nâu đen lên một bao hàng để sát kệ gỗ tại cửa ra vào, rồi đi vào trong lấy cuộn dây cho L. Thấy điện thoại để sơ hở, L cầm điện thoại bỏ vào túi quần dài bên phải của mình. Khi chị Tr mang cuộn dây ra đưa cho L, L trả tiền mua cuộn dây hết 35.000 đồng, rồi lên xe đi về nhà. Lúc về đến nhà, L mở điện thoại lên để sử dụng, nhưng do chị Tr cài mật khẩu nên L không mở khóa sử dụng được. Sợ bị phát hiện, L vuốt màn hình từ bên trên góc phải xuống tìm thanh công cụ, bật chuyển chế độ máy bay (chế độ tắt mạng di động), tháo sim điện thoại vứt bỏ vào nhà vệ sinh rồi cất giấu điện thoại trên tủ quần áo cạnh giường ngủ. Sau khi phát hiện bị mất trộm điện thoại, chị Tr đã trình báo Công an xã Lộc Hiệp.

Quá trình điều tra, Lâm Văn L đã thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Căn cứ bản kết luận số: 69/KL-HĐ ĐGTSTTHS ngày 24/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lộc Ninh kết luận, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, loại XS Max, màu đen trị giá 8.000.000 đồng.

Bản cáo trạng số 34/CT-VKS ngày 05/72022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Lâm Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lâm Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h,b,i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lâm Văn L từ 06 đến 09 tháng tù.

Người bào chữa cho bị cáo Lâm Văn L như sau: Về tội danh thống nhất như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh truy tố không tranh luận nội dung này. Chỉ xin trình bày các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:

Bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sau khi phamm tội đã bồi thường thiệt hại cho bị hại, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn. Bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số, không được học hành, trình độ nhận thức về pháp luật có phần hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo sống chung với cha mẹ già và không có tình tiết tăng nặng nên đề nghị hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo các điểm h,b,i,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án 09 tháng tù. Cho hưởng án treo để cho bị cáo có cơ hội chăm lo cho mẹ già.

Bị cáo thống nhất nội dung bào chữa của người bào chữa cho bị cáo và không bổ sung gì thêm.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Đề nghị hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại về thời gian, địa điểm nơi xảy ra vụ án và toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 29/01/2022, khi Lâm Văn L đến tiệm của chị Tr mua đồ và thấy điện thoại di động nhãn hiện iphone loại XS Max của chị Trần Thị Thảo Tr để trên bàn trong lúc chị Tr không để ý đã lén lút lấy trộm điện thoại trị giá 8.000.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản và đem về nhà cất giấu.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung bổ sung năm 2017 là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội cũng như tại phiên tòa công khai, bị cáo là người đã thành niên,có năng lực trách nhiệm hình sự.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội của mình với lỗi cố ý. Động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo nhằm mục đích để sử dụng.

Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại cho bị hại. Giá trị tài sản chiếm đoạt không lớn và bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, ngoài ra bị cáo là người dân tộc thiểu số, không biết chữ nên nhận thức về pháp luật còn hạn chế. Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn được xác nhận của UBND xã Lộc Quang, bị cáo còn có cha mẹ già. Bị cáo được áp dụng các tình giảm nhẹ trách nhệm hình sự theo quy định tại điểm h,s,i,b khoản 1, khoản 2 Điều 51 bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng đủ điều kiện cho bị cáo miễn chấp hành hình phạt có điều kiện đó là cho bị cáo hưởng án treo và giao bị cáo về UBND nơi cư trú giám sát giáo dục trong thời gian thử thách, cũng tạo điều kiện cho bị cáo được tiếp tục chăm sóc cha mẹ già thể hiện sự khoan hồng của nhà nước đối với trường hợp phạm tội lần đầu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh đề nghị Hội đồng xét xử phạt tù như trong bản luận tội là qúa nghiêm khắc hội đồng xét xử không chấp nhận.

Đề nghị của người bào chữa cho bị cáo xử phạt bị cáo 09 tháng tù cho hưởng án treo là phù hợp với nhận định cùa hội đồng xét xử được chấp nhận.

[4] Về vật chứng vụ án:

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý vật chứng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho bị hại 500.000đ, bị hại không yêu cầu gì thêm nên hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Lâm Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h,b,i,s khoản 1,2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Lâm Văn L 09 (chín) tháng tù. Cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 01(một) năm 06)sáu) tháng. Tính tù từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Lâm Văn L cho Ủy ban nhân dân xã Lộc Quang, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí:

Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Lâm Văn L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại, người bào chữa cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 44/2022/HS-ST

Số hiệu:44/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về